Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Những Thứ Dễ Gây Lầm Lạc


Nếu con hiểu được rằng tất cả những hình tướng dối lừa đang hiện hữu của thế gian đều không thật về bản chất, chúng sẽ không thể khiến con lầm lạc.

Nếu con có lòng dính chấp cho rằng những người bạn và kẻ thù là thật có, họ sẽ khiến con lầm lạc. Nhưng nếu con giữ được Tâm bình đẳng trước cả hai đối tượng, họ sẽ không thể lừa dối và dẫn con lạc bước.

Nếu con thấy được nhiều sự thay đổi và biến chuyển, chúng có thể gây nên lầm lạc. Nhưng nếu con thấu hiểu được bản chất thật sự vượt ra ngoài những đổi thay, chúng sẽ không gây nên lầm lạc.

Nếu con bám chấp vào thực tại của Sinh và Tử thì con đang bị đánh lừa quá mức. Nhưng nếu con nhận biết được là chẳng có sự Sinh và Tử nào cả, thì cũng là lúc không còn sự dối lừa nào.

Nếu con tin vào sự hiện hữu của Khổ Đau thì con đang chịu nhiều sự lừa dối. Còn khi con nhận ra rằng thực chất không có gì là Khổ Đau, thì sự dối lừa ấy cũng không còn.

Nếu con tin rằng bản thân và người khác là tách biệt thì chính con đang bị dối gạt. Còn khi con nhận ra rằng cả hai chẳng phải là hai cá thể riêng biệt, thì cũng không còn sự dối gạt.

Nếu con hiểu được bản chất thật sự của sự dối gạt thì những niệm tưởng lan man sẽ được giải thoát ngay tại chỗ.

~ Khenpo Tsultrim Rinpoche
(Eng Source: Heart of Buddhism Kindness's IG)

Tánh Không và Nghiệp Lý


Nói chung, chúng ta không nên nghĩ rằng bằng việc phát triển sự thấu hiểu về Tánh không, bản chất tối hậu của thực tại, chúng ta sẽ chạm đến cảnh giới hoàn toàn rỗng không, trong đó không còn Nghiệp, không còn hình tướng, không có bất cứ gì cả. Sự trống không như vậy không hề tồn tại. Nếu khảo sát về việc sinh khởi của hiện tượng, chúng ta sẽ tiến đến kết luận rằng không phải là không có một hiện tượng nào sinh khởi, mà thực chất là không có một hiện tượng nào rắn chắc và có thật được sinh ra.
Điều này hoàn toàn thích đáng với lý thuyết về Nghiệp Quả, vì nếu như có một đối tượng chắc đặc được sinh ra mà không hàm chứa trong nó Không tánh, thì quy luật Nghiệp Quả cũng không thể vận hành. Vì nếu như có một Nhân riêng biệt, cụ thể nào đó có mặt và Quả của nó tự động sinh ra; với kết quả đã tự động sinh khởi như vậy, một Nhân sẽ không thể cho Quả trong kỳ hạn lâu xa, ví dụ, Quả ở những kiếp vị lai. Vậy nên, nguyên lý về Không tánh không bác bỏ, mà lại củng cố cho Nghiệp lý. Khi chúng ta có được sự thấu suốt về bản chất thật sự, cách thức thật sự của hiện tượng là, thì chúng ta không chối bỏ quy luật về Nghiệp, mặt khác, chúng ta đạt được một niềm tin vững chắc vào Nghiệp lý vì nó được tánh Không bổ trợ.
Lấy thí dụ về việc soi gương. Nếu thật có gì đó từ khuôn mặt con dịch chuyển sang tấm gương, nếu như khuôn mặt thật của con phải nhập vào trong tấm gương trước khi con có thể thấy được hình ảnh phản chiếu, thì hình ảnh phản chiếu của con sẽ không thể xuất hiện trên nhiều mặt gương. Tuy nhiên, khi có những điều kiện thích hợp, những hình ảnh phản chiếu hiện lên gương mà không thật có một sự kết nối sẵn nào giữa nguyên nhân (khuôn mặt con) và kết quả (ảnh phản chiếu).
Nhờ vào tánh Không trong mối liên hệ giữa Nhân, những Duyên (điều kiện) thứ yếu, và Quả nên Nghiệp chúng ta tạo tác trong đời này mới có khả năng trổ Quả ở một thời điểm xa xôi nào đó trong một kiếp sống vị lai.


~ Khenchen Thrangu Rinpoche


(Eng Source: Padmamalla's IG)

Những Vấn Đề khi Hành Thiền

 

Khi Tâm chùn xuống, lờ đờ, mê mờ, con cần phải đánh thức, phải khuấy động sự Tỉnh Giác; còn khi Tâm phân tán và trạo cử, con phải buông xả, thư giãn Tâm thật sâu hướng vào trong. Tuy nhiên, những việc này không thể tiến hành với áp lực hay sự áp đặt lên dòng Tâm Thiền đang dao động, hơn hết là con chỉ cần đơn thuần nhớ nghĩ đến việc nhận biết bản tánh của Tâm. Sự nhận biết này được duy trì liên tục, trong tất cả mọi hoàn cảnh, khi đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, và trong mỗi mỗi hoạt động, cả trong những thời tọa thiền lẫn những khoảng thời gian dừng nghỉ xen giữa. Bất cứ ý niệm nào dù vui hay buồn, hay bất kỳ trạng thái cảm xúc ô nhiễm nào hiện khởi, cứ để tất cả những ý niệm đó như chúng là, không dính mắc bằng việc hy vọng hay sợ hãi về chúng, không chối bỏ hoặc yêu thích chúng, và không cần phải nỗ lực để vô hiệu hóa chúng bằng những phương cách đối trị. Bất kể những cảm xúc nào của hỷ lạc hay khổ đau có thể xảy ra, chúng đều được để nguyên như bản chất của chúng - không bị tác động, nguyên sơ, tươi mới và sinh động. Con sẽ thấy rằng mình luôn luôn quay trở về với một-điểm-chính, vậy nên đừng lo lắng khi trong đầu con chứa đủ kiểu lý thuyết triết học. Cũng cần nhớ rằng, con không nhất thiết phải tập trung vào khía cạnh của Không tánh như là một phương pháp đối trị với những cảm xúc hay luồng suy nghĩ mang tính phán xét không mong muốn  khởi sinh. Đồng thời với việc nhận biết được sự hiện khởi thanh tịnh, tự chúng sẽ được phóng thích như một con rắn đang cuộn tròn duỗi bung thân mình.


~ Dudjom Rinpoche

(Eng Source: Padmamalla's IG)

Chúc Mừng Năm Mới 2022

 

Năng lượng lại sắp bắt đầu chuyển động mạnh cho thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Mọi thứ luôn không ngừng thay đổi nên loại năng lượng thế nào, nhiều ít ra sao của tổng thể thế giới trong từng giây, từng phút thì đều khác nhau, lúc nhiều lúc ít. Như năng lượng trong đêm Chúa giáng sinh sẽ không giống như năng lượng trong đêm Bồ Tát đản sinh, năng lượng trong đêm Bồ Tát thành Đạo cũng không giống đêm Phật bát Niết Bàn. Rồi về sau, đêm kỷ niệm những ngày lễ trọng đại của chư Hiền Thánh xuất hiện nơi thế gian này không còn là nguồn năng lượng thanh tịnh của chính chư vị nữa mà là nguồn năng lượng xuất phát từ Tâm của chúng môn đồ liên hệ khắp chốn. Tuy là Phật tử nhưng mình cứ có cảm giác năng lượng đêm rằm tháng tư đa phần luôn ồn náo, xô bồ như kiểu Bà La Môn Giáo. Năng lượng ấy khác biệt nơi mỗi người, phân tán, có phần bất tịnh và dường như dễ khiến cho người dự lễ kiệt sức sau đêm hội. Còn đêm Giáng Sinh thì lại khác, gần như mình cảm nhận một thứ năng lượng trong trẻo lan tỏa và tràn ngập khắp không gian đất trời. Phải thú thật là mình đã yêu mùa Giáng Sinh từ nhỏ đến tận bây giờ. Với mình, Giáng Sinh là mùa an lành nhất của một năm. Khi mình ở cạnh một người bạn thờ Chúa, năng lượng cũng khá ổn định hơn là một người Phật tử nếu chỉ xét về phần đông. Đáng buồn thay, thực trạng này là do người ta thờ Phật như thờ Thần, mang danh Phật tử để xúng xính lợi ích và tô vẽ cho cái Tôi của mình chứ chẳng hiểu gì mấy về Ngài, còn nói gì đến lý tưởng của Ngài chứ! Toàn thể Pháp Giới với vô lượng chúng sinh trong vô lượng vũ trụ chỉ thật sự an lạc khi Đức Phật xuất hiện nơi đời. Làm sao có thể so sánh niềm an lạc trong Tâm của chúng sanh thời Mạt Pháp với thời Chánh Pháp, hay thậm chí là thời Tượng Pháp cho được? Mình thật thèm khát được một lần dự vào năng lượng thuần khiết, đầy Trí Tuệ và Từ Bi như đang ở cùng 1,250 vị Thánh Tỳ kheo và Đức Phật vào mỗi đêm rằm của thời ấy. Một ước muốn có phần hão huyền, nhưng biết đâu được..có lẽ sẽ rất giống cảm giác khi được ở trên núi tuyết thanh tịnh và tĩnh lặng, phải chăng vì vậy mà chư Phật Độc Giác chọn núi tuyết làm trú xứ? 
 
Thời khắc giao mùa chắc chắn sẽ chứa đựng nguồn năng lượng đổi mới từ tất cả mọi người. Người ta có thể không đủ Chánh Niệm và Trí Tuệ để nhìn lại mình sau từng phút như hành giả tu Tứ Niệm Xứ miên mật, không thể nhìn lại mình sau từng ngày như một người cư sĩ tại gia có tu học, không thể nhìn lại mình sau một tháng vì mãi bù đầu tóc rối với chuyện cơm áo gạo tiền mỗi ngày đến nỗi chẳng còn nhớ ra ngày tháng...Nhưng may mắn thay, người ta vẫn còn đủ tỉnh táo để biết nhìn lại mình và xã hội sau 1 năm để tổng kết những thứ đã Vô Thường, để rút kinh nghiệm cho kế hoạch dài hơi của năm tiếp theo và những năm sau nữa...Cái ngoảnh nhìn sẽ không vô ích nếu ta không chìm đắm vào thứ tình cảm bi lụy, luyến tiếc về quá khứ để lại tiếp tục bỏ qua cơ hội đổi mới ngay trong thực tại. Mong cho nguồn năng lượng mới đủ sức mạnh tạo ra một sự chuyển đổi lớn lao trong nhận thức của đa số những người còn may mắn hiện diện trên cõi đời này, như sức bật dậy thật mạnh sau nỗi thương đau vì đã nhận ra được bài học của chính mình...
 
Mong thay!

Lạc Hải Âm
HL 30/12/21

Thay Vì...

 

Thay vì thời buổi này cần PHẢI đóng cửa cách ly, đẩy mạnh Kinh Tế trong nước thì anh lại vì lòng Tham mà chạy đua theo xu hướng mở cửa Du Lịch như các nước.

Thay vì có thể dùng tiền có sẵn, dư giả để nuôi sống người dân qua thời kỳ dịch, ổn định tâm lý cho đồng bào, làm nền cho một cú nẩy vững chắc và mạnh mẽ sau thời dịch thì anh đem hết tiền của ra để mua vaccine, chạy đua vaccine, trang bị vật tư y tế, nhưng hình như anh quên nhận ra rằng số y bác sĩ và đội ngũ điều dưỡng thì ko tăng, theo đó số người chết sẽ không giảm, và áp lực từ bệnh/chết mỗi ngày sẽ đè nặng lên vai, lên Tâm trí của những người đang sống.

Thay vì tùy hỷ/góp sức/hành động tức thời và công khai minh bạch vì lợi ích của người khác thì anh chỉ biết ngồi một chỗ, suy nghĩ tiêu cực hẹp hòi, chỉ trích đa phương và đa diện nhắm vào những hoạt động thiện nguyện. Hệ quả là các thứ văn bản quy định lập tức sinh ra đầy đủ ở các cấp hơn bao giờ hết, để rồi món "tiền tươi" sẽ KHÔNG BAO GIỜ có cơ hội được chạm tới tay người dân trong vùng bão lũ lúc ngặt nghèo. Chờ cho các ông thẩm định, ký tá văn bản, có vị cao nhân còn tự hào với việc thiện nguyện cho dân bằng cách... chuyển khoản thì xin thưa, tiền cứu trợ sẽ trở thành tiền lo ma chay, còn các thứ nhu yếu phẩm cứu trợ thì bị xếp xó vì hiện nay những trái tim chân Thiện hướng về vùng bão lũ của thời trước đã chảy máu, đã bị tổn thương, đã bị giam hãm bởi áp lực từ các quy định và điều tiếng.

Đây là thời buổi mỗi người nên ở yên một chỗ, kiểm soát nội Tâm, điều chỉnh hành vi và lời nói của mình để đem lại sự an lành cho bản thân, cho người thân, cho xã hội. Thì thay vào đó, ngay liền sau đợt sóng dịch, anh lại nhanh chóng trở về với thói quen Tham thích hướng ngoại, đi lung tung/giao tiếp linh tinh/làm đủ thứ hành động để hưởng thụ, để thỏa mãn nhu cầu riêng tư của anh, và để rồi anh tự biến mình thành F0, biến những người mình yêu thương thành F1, góp phần thúc đẩy số ca bệnh/chết mỗi ngày.

Thay vì nhận ra lỗi lầm và trách nhiệm ở nơi chính bản thân mình, anh lại sai lầm đổ hết trách nhiệm lo toan cho nhà nước và chính phủ. Cha mẹ cho anh cuộc sống, nhà nước và xã hội cho anh điều kiện phát triển an lành, nhiều thứ trợ duyên cho anh trưởng thành nhưng việc anh SỐNG ra sao, CHẾT như thế nào thì phần chủ yếu là do anh quyết định cả, nên khi đã trưởng thành rồi thì anh đừng nên có suy nghĩ ỷ lại, trông chờ và đổ hoàn toàn trách nhiệm Sống Chết cho gia đình, xã hội, nhà nước. Hãy nhớ rằng KHÔNG AI chịu trách nhiệm cho suy nghĩ CỦA ANH, và hãy LUÔN LUÔN nhớ rằng Cái Chết chắc chắn sẽ đến với anh và chắc chắn là KHÔNG AI CHẾT CÙNG anh!

Nhận thức đúng đắn là việc anh hiểu được rằng khi anh có khả năng giải quyết những vấn đề nội tâm của riêng mình, giảm bớt và kiểm soát được lòng Tham, sự Sân Giận nơi mình thì chính là anh đã góp phần làm lợi lạc cho bầu không khí xung quanh anh, cho sự an lạc của những người xung quanh anh, rộng hơn là cho đất nước và toàn thể địa cầu. Như Phó Thủ Tướng Vũ Đức Đam đã từng nói ngay từ những ngày đầu mùa dịch "ai ở đâu, ở yên đó là góp phần bảo vệ cho xã hội, cho nước nhà". Thay vì Trung Thành và Kham Nhẫn với chỉ thị ban đầu, cũng là Kham Nhẫn kiểm soát và tiết chế bản thân để vấn đề chung của xã hội được giải quyết triệt để thì một lần và hết lần này đến lần khác, chúng ta lại để cho lòng Tham - lúc nào cũng muốn này muốn nọ - chi phối tất cả suy nghĩ và hành động mà không lưu Tâm đến hệ lụy của việc đó đối với toàn thể xã hội.

Nói sao cho hết những hoàn cảnh Thay Vì trong lúc mọi thứ dường như càng lúc càng diễn tiến theo chiều hướng hỗn mang hơn ở nước mình và trên toàn thế giới. Lòng Tham Cầu dẫn đến Kỳ Vọng và Sợ Hãi cứ thế tiếp tục xoay vần để mỗi lúc nỗi Tham Sống Sợ Chết cũng ngày một to lớn và khủng khiếp hơn. Nếu cứ tiếp tục vì lợi ích cá nhân, hay lợi ích của một nhóm người mà anh hy sinh lợi ích của nhiều người, của số đông mọi người thì sự Ích Kỷ bị chi phối bởi lòng Tham, Kỳ Vọng và Sợ Hãi ấy sẽ tiếp tục lớn mạnh. Chúng chưa bao giờ và sẽ KHÔNG BAO GIỜ là những Nhân tố Thiện lành. Như vậy, việc chờ đợi Quả Lành nảy nở từ những Nhân xấu chính là ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG. Cho nên, nếu không có sự thay đổi trong NHẬN THỨC dẫn đến sự thay đổi về cách HÀNH XỬ thì mọi sự Cố Gắng của anh đều là GIÃY CHẾT, mọi thay đổi và biến chuyển chỉ góp phần đưa xã hội và người dân tiến gần và nhanh hơn đến Sự Chết, nền Kinh Tế sẽ phải oằn mình gồng gánh lâu dài hơn và kịch bản của lạm phát, đói nghèo, trộm cướp, tai ương, dịch bệnh nặng nề rất có thể trở thành một hiện thực tàn khốc và bi thảm.

Nhưng hơn hết, điều tôi muốn nói sau nội dung bài viết này chỉ là muốn nêu lên tầm quan trọng của Trí Tuệ, của một cái nhìn đúng đắn trong tất cả mọi việc, từ việc bé nhất nơi cá nhân của mỗi người đến khối lượng công việc đồ sộ mang tầm ảnh hưởng sâu rộng của một quốc gia, của một hành tinh. Trí Tuệ và Tri Kiến đúng đắn ấy không bị lệ thuộc vào khuôn khổ của đất nước, văn hóa, chính trị, kinh tế, tôn giáo, chủng tộc, màu da...nó càng không nên bị chi phối bởi lòng Tham, nỗi Toan Tính, sự Thù Hận...nó chỉ đơn giản là sự THỪA NHẬN quy luật vận hành của vũ trụ và vạn vật bằng một Tâm thái bình tĩnh, không vướng kẹt và sáng suốt nhất trước khi quyết định hành xử bất cứ việc gì. Tất thảy đều là dòng chảy của Duyên Khởi, Nhân Quả, Nghiệp Lực phát xuất từ nơi mỗi người và trách nhiệm quy về mỗi cá nhân, bất kể vị trí nào anh đang nắm giữ, bất kể bao nhiêu tiền bạc, sự giàu có, tiếng tăm mà anh đang có. Dù Chúa hay Phật có ra đời hay không tồn tại trên cõi đời này thì mọi thứ vẫn theo quy luật bất biến đó mà diễn tiến. Tôi xem Đức Phật như một bậc vĩ nhân, một bậc đạt tới Trí Tuệ siêu việt trong việc thấu hiểu bản chất và quy luật của vũ trụ để học theo Tri Kiến và Tuệ Giác của Ngài. Tôi tin chắc vào quy luật bất biến ấy cũng như tin vào nhận định của Ngài rằng: "Giáo lý Duyên Khởi vô cùng sâu sắc. Vì không hiểu được nó nên thế giới này rối mù như một cuộn chỉ, một tổ chim, một đám sậy và chúng sinh phàm phu đã không thoát khỏi sinh tử và đọa lạc."

Một phương diện khác, nhà thơ Rumi, cũng là nhà tư tưởng nổi tiếng thuộc Hồi Giáo đã ghi lại cuộc đối thoại nội tâm giữa ông và Thượng Đế:
"-Con nghĩ rằng mình không muốn chết trước khi được biết về Ngài."
"-Người nào hiểu biết về ta, người đó Bất Tử." - Thượng Đế trả lời.

Liệu Thượng Đế ở đây có phải ám chỉ cho Chân Lý, cho Sự Thật Bất Biến của vũ trụ và mục đích của kiếp người quý báu là nhận chân rõ được Sự Thật ấy? Nhưng dĩ nhiên, một người phải có Trí Tuệ thì mới có thể thấy được lẽ thật, và mới dám sống dựa trên lẽ thật. Như vậy thì khởi điểm phải bắt đầu từ việc có được Tri Kiến đúng đắn dựa trên những Sự Thật Nền Tảng của Vô Thường và Vô Ngã, từ đó tư duy mới đúng hướng, đoạn đường tiến đến Sự Thật mới được rút ngắn lại cùng bao điều Thiện Lành liên tục trổ quả dọc đường. Cuối cùng, người lữ hành sẽ đạt được thành quả to lớn nhất, chính là rốt ráo nhận chân được Sự Thật, viên mãn Trí Tuệ và thoát khỏi hoàn toàn mọi Khổ Đau.



Mong lắm vậy thay!


~ Lạc Hải Âm
HL 07/12/21
 

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Trạng Thái Không Cần Dụng Công (*)

 
Khi không còn dính mắc vào các đối tượng phân biệt, con không còn phải dụng công đối với Tri Kiến của thực tại.
 
Khi không còn dính mắc vào trạng thái hôn trầm, trạo cử, sao lãng thiếu tập trung, thì việc hành Thiền chẳng còn phải dụng công.
 
Khi sự bám chấp vào những vấn đề thế gian tan biến, thì những hành xử tức thời là không cần dụng công.
 
Khi Tâm đã gột sạch khỏi những ô nhiễm, thì sự kinh nghiệm của Tâm là không cần dụng công.
 
Khi Tâm đã lìa khỏi các thứ phiền não, nó dễ dàng an trú vào tầng ý thức thanh tịnh của Pháp Thân (Tâm nguyên sơ vô phân biệt) mà chẳng cần phải dụng công.
 
Khi từ bỏ được tình cảm thiên vị, lòng bi mẫn sinh khởi mà chẳng cần dụng công.
 
Khi từ bỏ khuynh hướng bám chấp trong Tâm, hạnh bố thí chẳng còn phải dụng công.
 
Khi nhận ra tất cả những sự theo đuổi thuộc thế gian đều là hư huyễn, niềm trân trọng cuộc sống khởi sinh chẳng cần dụng công.
 
Khi hành động của con thoát khỏi ngã mạn và kiêu ngạo, mọi công việc hàng ngày con đảm trách chẳng còn phải dụng công.
 
Khi không còn sống dựa theo những mối bận tâm thế tục, sự lựa chọn sinh kế của con chẳng cần phải dụng công.

Khi không còn dự vào sự ganh đua giữa các cá nhân, mối quan hệ của con với người khác được thiết lập chẳng cần dụng công.

Khi không còn can dự vào những hành xử non nớt hướng về bản ngã, con sống trong trạng thái chẳng cần dụng công.

Khi phụng sự một vị Đạo Sư Cao Quý là hiện thân của lòng bi mẫn và trí tuệ, sự hiện diện của con chẳng cần phải dụng công.

Khi con nhận biết rằng bản tính Giác Ngộ hiện hữu nơi tất cả chúng sinh, con chẳng còn phải dụng công trong việc trưởng dưỡng tình cảm thân thiết với họ.

Khi đã thành công trong việc từ bỏ sự bám chấp, bất cứ điều gì con làm đều ở trong trạng thái chẳng cần dụng công.

Khi sự thật tương đối (Tục Đế) và sự thật tối hậu (Chân Đế) trở thành một, con chẳng cần phải dụng công để nhận biết được hạnh phúc thanh tịnh.

Khi con nhận ra mọi hình ảnh [được trông thấy] và âm thanh [được nghe thấy] đều là hư huyễn, Khổ Đau trong con tan biến mà chẳng cần phải dụng công.

Khi nhận ra được bản tánh chân thật, con chẳng cần dụng công để né tránh bạo lực và những xung đột.

Khi nhận biết được rằng những suy nghĩ chỉ là hiện tượng của Tâm, con có thể sử dụng bất kỳ đối tượng nào để hành Thiền mà chẳng cần phải dụng công.

~ Đạo Sư Liên Hoa Sinh

(*) Trạng thái dễ dàng tự nhiên sinh khởi mà không cần hoặc chỉ với rất ít sự nỗ lực.

 
THE STATE OF EFFORTLESS

When there is no attachment to duality, the view of reality is effortless.

When there is no attachment to lethargy, restlessness and mindless diversion, meditation is effortless.

When attachment to mundane concerns is dissolved, spontaneous action is effortless.

When the mind is cleansed of its mental defilement, experience is effortless.

When the mind is separated from affliction, it is effortless to reside in the pure consciousness of dharmakaya (the non-dualistic primordial mind).

When affection for partiality is removed, compassion is effortless.

When propensity to clinging is eliminated from the mind, generosity is effortless.

When recognising all worldly pursuits to be illusory, appreciation of life is effortless.

When your action is free of conceit and arrogance, your daily undertaking is effortless.

When you do not live in accordance to mundane concerns, choice of livelihood is effortless.

When you no longer engage in inter-personal rivalry, relationship with others is effortless.

When you no longer engage in immature, egocentric conduct, the state of your being is effortless.

When in attendance of a Noble Guru who is the embodiment of compassion and wisdom, one’s state of being is effortless.

When you recognise the essence of enlightenment is present in all sentient beings, it is effortless to develop familial affection towards them.

When you have succeeded in abandoning attachment, whatever you do becomes effortless.

When relative truth and ultimate truth become one, it is effortless to realise pure happiness.

When recognising visions and sounds to be illusory, it is effortless to dissolve suffering.

When realising your true nature, it is effortless to avoid exertion and conflicts.

When recognising thoughts as phenomena of the mind, it is effortless to use any object for meditation.

~ Padmasambhava

Buông Bỏ Vọng Tưởng


 
Tĩnh tọa với việc tạo ra thêm những ý nghĩ phán xét khi nhận diện được những khía cạnh cụ thể nào đó của Tâm thì không phải là con đang hành Thiền. Đó là những hoạt động của trí năng. Thực tế, chẳng có bất kỳ thứ gì để Thiền; và cũng chẳng có quá trình Thiền nào cả. Nhưng con đừng dung thứ cho những khoảnh khắc phóng Tâm. Việc lang thang khỏi trạng thái Tâm tự-giác-biết mới chính là vọng tưởng, vì thế đừng xao lãng! Bất kỳ ý niệm nào khởi lên, cứ để chúng hiện khởi, nhưng đừng theo đuổi chúng và cũng đừng ngăn chận chúng.
Vậy điều gì cần được thực hiện? Bất kỳ thông tin nào của đối tượng được tiếp nhận từ các cửa giác quan hiện khởi, chúng chỉ là sự xuất hiện của các hình thái, không phải để bám chấp vào chúng mà thay vào đó, con hãy an trú vào kinh nghiệm tươi mới nguyên sơ, giống như một đứa trẻ đi loanh quanh để nhìn ngắm một ngôi đền kỳ diệu mà không dừng trú lại bất kỳ chỗ nào. Tất cả những khoảnh khắc thuộc về hiện tượng của Tâm ở ngay đúng vị trí của chúng, hình thái của chúng không bị bóp méo, màu sắc của chúng không bị thay đổi, vẻ đẹp của chúng được để nguyên vẹn. Hơn nữa, nhờ việc giữ cho những thông tin ghi dấu nơi các cửa giác quan được tinh nguyên, không bị pha trộn với sự Tham muốn và những niệm tưởng Bám Chấp, nên tất cả những hình thái ảo huyễn do Tâm hiện khởi đều là trạng thái giác biết rõ ràng và vô phân biệt của tánh Không sáng tỏ.

Một số hành giả với căn cơ thấp có thể cảm thấy bối rối trước những giáo lý "thâm sâu và quảng đại", và nếu như Thầy có thể cô đọng nội dung ấy thành một lời khai thị có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho họ, Thầy sẽ nói rằng: Khoảng trống của sự dừng nghỉ giữa một niệm và sự khởi sinh của niệm kế tiếp chính là khoảnh khắc bất biến của Ý Thức hiện tiền (tại-đây-và-bây-giờ), chẳng phải đó là sự giác biết trọn vẹn và rõ ràng sao? Ho! Đó chắc chắn chính là thực tại thuần khiết! Và vì con không thể an trú trong không gian của sự hay biết như thị thuần khiết, nên một niệm sinh khởi là chuyện khó tránh khỏi, đúng không? Niệm tưởng đó là sự biểu hiển sáng tạo của thực tại thuần khiết! Nếu con thất bại trong việc nhận biết ý niệm ngay khi nó sinh khởi, nó sẽ sản sinh ra thêm những suy nghĩ phán xét lang thang bất định, có thể gọi tên là "chuỗi ảo vọng" và đây chính là căn nguyên của Luân Hồi. Khi con nhận biết được ý niệm lúc nó mới bắt đầu khởi và chỉ để nguyên như vậy mà không chạy theo nó, thì bất kỳ ý niệm nào sinh khởi cũng đều lập tức được giải phóng vào trong thực tại thuần khiết của Pháp Thân.


~ Dudjom Rinpoche

Phật Giáo Là Gì và Không Phải Là Gì?


 
Người ta thường hỏi tôi rằng: "Tóm gọn lại thì Phật Giáo là gì?" Hoặc họ hỏi, "Cái nhìn cụ thể hay tư tưởng Triết học riêng của Phật Giáo là gì?"

Thật không may cho phương Tây, tại đây, Phật Giáo dường như đã đổ bộ vào trong giới hạn của các thứ Tôn Giáo, ngay cả trong phạm vi tự-lực hoặc lãnh vực tự-cải-tiến, và rõ ràng là nó đang tồn tại trong xu hướng thuộc lĩnh vực Thiền tập. Tôi muốn đưa ra lời thách thức trong việc xác lập một định nghĩa phổ biến về việc tu Thiền của Phật Giáo.

Nhiều người nghĩ rằng Thiền là hành động gì đó phải tiến hành với sự thư giãn, với việc ngắm nhìn cảnh hoàng hôn hoặc những con sóng ở bãi biển. Những cụm từ thật duyên dáng như "buông xả" và "sống thảnh thơi" thường xuất hiện trong Tâm. Theo quan điểm nhìn nhận của Phật Giáo thì việc hành Thiền cần một chút gì đó nhiều hơn như vậy.

Đầu tiên, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải xác định bối cảnh thật sự của Thiền Phật Giáo. Điều này được gọi là Tri Kiến, Thiền Tập và Hành Động; nếu gộp chung lại với nhau thì sự phối hợp của Kiến-Thiền-Hành là một cách khá khéo léo để thấu hiểu về Đạo lộ (con đường dẫn đến Giải Thoát). Mặc dù chúng ta không thể sử dụng cách biểu đạt như vậy trong cuộc sống hàng ngày, nhưng nếu suy nghĩ về nó thì chúng ta luôn luôn có thể hành xử đúng theo hình thái Kiến-Thiền-Hành. Ví dụ, nếu muốn mua một chiếc xe hơi, chúng ta sẽ chọn chiếc nào mình nghĩ là tốt nhất, đáng tin cậy nhất và v.v... Vậy thì, "Tri Kiến" trong trường hợp này là ý tưởng, hoặc là niềm tin rằng chúng ta sẽ có một chiếc xe tốt. Tiếp đến, "Thiền Tập" là việc suy tư và làm quen dần với ý tưởng đó, và "Hành Động" là việc chúng ta thật sự mua chiếc xe, lái xe và sử dụng nó. Quá trình này không nhất thiết phải là một điều gì đó liên quan đến Phật Giáo, nó là việc mà chúng ta luôn tiến hành vào mọi thời điểm. Bạn không cần phải gọi nó là Tri Kiến, Thiền Tập và Hành Động. Bạn có thể nghĩ về nó như là "ý tưởng" khởi đầu, "làm quen" với ý tưởng và thật sự "đạt được" như ý tưởng ấy.

Vậy thì Tri Kiến cụ thể mà một Phật tử cần cố gắng trở nên quen thuộc là gì? - Phật Giáo được phân biệt và nhận dạng bởi bốn tính chất, hay còn gọi là "bốn dấu ấn". Thực chất, nếu như tất cả bốn dấu ấn này được tìm thấy trong một con đường (Đạo lộ) hoặc một Triết lý nào đó, thì việc gọi tên nó là Phật Giáo hay không chẳng còn quan trọng nữa. Bạn có thể gọi nó bằng bất cứ tên gì bạn thích; những từ ngữ như "Phật tử" hoặc "Phật Giáo" không còn quan trọng. Điểm chính yếu là nếu như Đạo lộ nào có chứa bốn dấu ấn này, nó có thể được xem là con đường của Đức Phật.

Do vậy, bốn đặc điểm có tên gọi là "Bốn Pháp Ấn", bao gồm:

Tất cả mọi thứ được chắp ghép nên đều Vô Thường.

Tất cả các cảm xúc đều Khổ Đau. Đây là điều mà chỉ có Phật tử mới đề cập đến. Nhiều Tôn Giáo tôn thờ tình yêu thương với những ngày lễ kỷ niệm cùng các bài Thánh ca. Nhưng Phật tử thì nghĩ rằng, "Những điều đó cũng chỉ toàn là Đau Khổ".

Tất cả mọi hiện tượng đều có bản chất là Không; chúng vốn không thật sự tồn tại. Điều này thực chất là Tri Kiến rốt ráo của Phật Giáo, ba điều kia lấy Pháp Ấn thứ ba này làm nền tảng.

Pháp Ấn thứ tư là Niết Bàn vượt ra ngoài mọi Cực Đoan.

Nếu không có bốn Pháp Ấn này, con đường của Phật Giáo sẽ trở thành hữu thần, chấp chứa những giáo điều tín ngưỡng, và toàn bộ mục đích của Phật Giáo cũng sẽ bị mất đi. Mặt khác, bạn có thể gặp một huấn luyện viên lướt ván, người này có thể chỉ dẫn cho bạn những giáo lý về cách thức ngồi ngắm hoàng hôn trên bãi biển: nếu những gì ông ấy nói hàm chứa tất cả bốn Pháp Ấn, nó sẽ là Phật Giáo. Những người Tây Tạng, Trung Quốc, hoặc Nhật bản có thể không thích sự thật này, nhưng việc thuyết giảng Phật Pháp thì không nhất thiết chỉ gói gọn trong một hình thức liên quan đến "truyền thống". Bốn Pháp Ấn khá tương quan với nhau, rồi bạn sẽ hiểu rõ hơn khi tham khảo những nội dung tiếp theo.

Mời quí vị tải và đọc đầy đủ nội dung tại đây

Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2021

Lời Khuyên của Bậc Hành Giả

 


Đừng dính mắc vào hình tướng bên ngoài,
Tâm của con mới thật là vị Đạo Sư (Guru) vĩ đại.

Đừng tin mê vào những quyền năng huyễn thuật,
Sự chuyển hóa thật sự nơi Tâm mới là sức mạnh mầu nhiệm cao quý.

Đừng dựa dẫm vào lực gia trì,
Liên tục gìn giữ Tâm Chánh Niệm mới chính là nguồn đại ân phước.


~ Togden Amtrin, Thrinle Lodrö
*Hình: bên trái là Togden Amtrin và bên phải là Togden Ajam.


Do not cling the external physiognomy.
Your mind is your own real great guru.

Do not superstitious magic powers.
Real change in mind is great magic power.

Do not rely on the blessing.
Keeping Mindfulness continually is great blessing.


~ Togden Amtrin, Thrinle Lodrö
*Photo: Togden Amtrin left with Togden Ajam right.


(Eng Source: Naldjor's FB)

Đông

 

Trời ạ, Đông về!!!
Cái chân đi bị trói quá lâu dễ khiến mình buông xuôi theo tính thích nghi sự đủ đầy và tiện lợi của hoàn cảnh, dễ dính mắc vào cái trạng thái quá an lành, thụ động không mấy mong ước của Quả lành hiện tại. May là biết chút Phật Pháp nên cũng kịp thời nhận ra mức độ chay lười và luyến ái của mình mà điều chỉnh. Lúc này, quả thật Vô Thường trở thành một sự cứu rỗi cho cơn ngủ mê! Cái lạnh của mùa Đông giá buốt, lạnh lùng như hiện thực của mỗi cuộc đời, như sự cô độc của một con sói, như sự hoang dại của một bầy sõi, như một bầu rượu cạn dưới ánh trăng ngà! Bây giờ mình đã bớt sợ lạnh, mình đã bớt nhớ những nơi chốn lạnh lẽo thường xuyên đi về, mình đã bỏ dần thói quen hoài cổ, nhưng đâu đó vẫn còn sót lại trong Tâm những thứ tục lụy khiến cho lòng cảm thấy ấm áp trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như một cái chớp mắt nếu đem so với dòng Luân Hồi dài bất tận. Ấm áp hay lạnh lẽo vốn là những thứ mình đã, đang và sẽ tiếp tục cảm nghiệm được của đời sống. Nhưng, điều quan trọng Phật dạy là, chớ để cho những niềm tục lụy đó tiếp tục gây nên hệ lụy là cơn lạnh rét mướt cắt vào da thịt của mùa Đông đời kéo dài vạn niên. Hãy biết tự sưởi ấm bằng ngọn lửa chánh Pháp bên trong mình.



Lạc Hải Âm
HL 04/12/21


P/S: Vừa viết xong cũng chợt nhận ra hôm nay là sinh nhật của một người mình đã từng có nhiều niềm thương, người đã làm nên những tháng ngày rộn ràng và chuỗi sống hoài cổ hết sức đẹp đẽ của mình. Anh cũng thích nhìn ngắm những vùng phủ trắng Tuyết bên ngoài, hay anh cũng yêu những giây phút trầm mặc cô độc của cõi Tâm! Happy Birthday! ❄❄❄☃️☃️☃️❄❄❄

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...