Hiển thị các bài đăng có nhãn Thiền Quán (Tuệ). Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thiền Quán (Tuệ). Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 11 tháng 1, 2022

Cốt Lõi của việc hành Thiền



Khi niệm tưởng chuyển động, chỉ cần nhận biết "người đang suy tưởng" thì những niệm tưởng đó sẽ tan biến. Dù những suy nghĩ có liên hệ đến vấn đề gì đi nữa cũng không quan trọng, bởi quá trình suy nghĩ và người đang suy tưởng là rỗng không. Bản thân một ý niệm không do bất kỳ thứ vật chất cụ thể nào tạo tác nên, nó chỉ đơn giản là những luồng chuyển động của những ý niệm rỗng không. Bằng việc nhận biết Không tánh trong một niệm khởi, nó lập tức biến mất giống như bong bóng nước vỡ tan. Đó là cách làm thế nào để lập tức đối phó với bất kỳ ý niệm cụ thể nào đang khởi sinh. Một khi bạn biết cách làm cho niệm tưởng hiện tại tan biến, bất kỳ ý nghĩ nào tiếp tục khởi lên cũng có thể được xử lý chính xác theo cùng cách thức như vậy, nó cũng chỉ là một ý niệm khởi sinh ở khoảnh khắc thực tại. Còn nếu như chúng ta tham gia vào tiến trình suy nghĩ, suy tưởng về những gì đang nghĩ đến, và cứ tiếp tục tiến trình đó thì nó sẽ không có điểm dừng.

Chính do tiến trình suy nghĩ đã thúc đẩy hoặc bức bách chúng ta phải tiếp tục hiện hữu thêm trong Luân Hồi. Khi chúng ta bị dính mắc vào trong những ý nghĩ của riêng mình, cuộc Luân Hồi sẽ không ngừng lại. Mặt khác, bất cứ ý niệm nào cũng đều rỗng Không, nó chẳng hàm chứa thứ vật chất rắn chắc nào trong nó. Điều này rất dễ thấy, bởi vì ngay khoảnh khắc bạn hay biết về tánh Không của Tâm, suy nghĩ biến mất ngay lập tức. Các ý nghĩ tan biến vào trong tính chất rỗng không, vào trong bản chất nền tảng của bạn, chính là Không tánh. Không sót lại bất kỳ một vết tích nào. Đó là cách duy nhất để giải quyết vấn đề. Khi bạn nhận biết được bản chất của mình, những ý niệm bị "hành quyết" ngay tại chỗ: nó hoàn toàn bị xóa sạch.

Luân Hồi được tạo nên khi chúng ta để Tâm hướng ra bên ngoài qua các cánh cửa của năm giác quan. Chúng ta tập trung vào một đối tượng thông qua mắt, hoặc tai, hoặc mũi, lưỡi, thân và rồi tạo tác nên những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng này. Có thể trông có vẻ như là có các loại ý thức khác nhau thông qua các cửa giác quan khác nhau, nhưng thực chất chỉ có một Tâm luân phiên chộp bắt lấy các đối tượng qua các cửa giác quan. Một ví dụ truyền thống minh họa cho việc này là hình ảnh của một con khỉ bị nhốt trong căn phòng trống có năm cửa sổ, nó nhảy nhót xung quanh không ngừng nghỉ và liên tục nhìn ra ngoài qua khung cửa này đến khung cửa khác. Một người đứng quan sát bên ngoài có thể nghĩ rằng có rất nhiều khỉ trong căn phòng đó, nhưng thực tế thì chỉ có một con. Nếu bạn có thể bắt và trói con khỉ đó lại, thì sẽ chẳng có con khỉ nào khác chạy nhảy vòng quanh nữa. Nói cách khác, phương thức để bắt được con khỉ chính là làm cho những suy nghĩ tan biến đi.

Một ví dụ khác là hình ảnh một đám cháy bùng lên ở giữa nhà và khói tuôn ra ngoài qua tất cả các khe hở của ngôi nhà. Nếu bạn tạt một xô nước vào giữa đám cháy, ngọn lửa sẽ lụi tắt, và khói cũng đồng thời biến mất ở mọi phương hướng. 'Khói' là một ví dụ thể hiện cho tính chất rỗng không; cũng giống như những suy nghĩ chỉ là sự hiển bày của Pháp Thân (thân tinh túy). Chính nó không phải Pháp Thân, nhưng nó là một sự hiện hóa từ bản chất nền tảng. Giống như bản chất nền tảng của chúng ta, sự hóa hiện này cũng không hàm chứa bất cứ thứ vật chất rắn chắc nào.

Việc thuyết giảng trọng yếu không bao giờ chỉ để nhận biết được Tâm phân biệt. Bởi điều đó là những gì mà tất cả chúng sinh đang làm trong mọi lúc - để ý vào những cảm xúc và suy nghĩ rồi hành xử theo chúng. Những chỉ dẫn cho việc hành Thiền không phải là để kéo dài mãi mãi công việc này, nó không chỉ để thấy ra được Tâm phân biệt, những niệm tưởng phân biệt. Mà hơn thế, những chỉ dẫn là để nhận ra được bản chất của Tâm thức. Đây là điểm khác biệt vô cùng quan trọng. Việc một người bị dính mắc vào trong suy nghĩ và hành xử dựa trên những cảm xúc chính là nguyên nhân tạo ra vòng Luân Hồi bất tận. Đây là kết quả của việc bị dính mắc vào trong những hiện tượng huyễn hóa mà không hiểu biết được bản chất của chúng là gì.


~ Tulku Urgyen Rinpoche


When a thought moves, simply recognise the thinker. The thinking then dissolves. No matter what the thought is about, the thinking and the thinker are empty. A thought in itself is not made of any concrete substance; it is simply an empty thought movement. By recognising the empty essence in a thought, it vanishes like a bubble in water. That is how to deal with any particular present thought at hand. Once you know how to let the present thought dissolve, any subsequent thought can be dealt with in exactly the same way, as simply another present thought. But if we get involved in the thought, thinking of what is being thought of, and continue it, then there is no end.

It is our thinking that propels us or forces us into further samsaric existence. As long as we get caught up in our own thinking, samsara doesn’t stop. On the other hand, any thought is an empty thought, in that it has no concrete substance to it whatsoever. It is very easy to no­tice this, because the moment you recognise mind essence, the thought dissolves right there. The thought vanishes into your empty essence, into your basic nature which is emptiness. There is no remnant whatso­ever. That is the only way to solve the problem. When recognising your essence, the thought is executed on the spot; it is totally obliterated.

Samsara is created when we let our mind extrovert through the five senses. We focus on an object through our eyes, or through the ears, or the nose, and make thoughts and emotions about this object. It may seem like we have different consciousnesses through the different senses, but actually it is one mind that alternately grabs at objects through the various senses. The traditional example for this is of a monkey in an empty room with five windows, restlessly jumping around and looking out through one window after the other. An out­side observer might think there are a lot of monkeys in that room, but in fact there is only one. If you catch hold of that monkey and tie it up, there is no jumping around any more. In other words, the way to cap­ture the monkey is by dissolving the thought.

Another example is of a fireplace in the middle of the house, with smoke coming out through all the openings. If you throw a bucket of water in the middle, the flames are extinguished, and the smoke si­multaneously disappears in all directions. ‘Smoke’ is an example for the expression of the essence; just as thoughts are the expression of dharmakaya [essence body]. They are not dharmakaya itself, but they are a manifestation of our basic nature. Just like our basic nature, this manifestation has no concrete substance to it.

The essential teaching is never to just recognise dualistic mind. That is what all sentient beings are doing all the time—noticing their feel­ings and thoughts, and then acting upon them. The meditation in­struction is not to perpetuate that; it is more than simply recognising dualistic mind, dualistic thinking. Rather, it is to recognise the essence of this mind. That is the crucial difference. Being caught up in one’s thoughts and acting upon these feelings is the cause of endless samsara. This is being caught up in the expression and not knowing the essence itself.


~ Tulku Urgyen Rinpoche

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Những Vấn Đề khi Hành Thiền

 

Khi Tâm chùn xuống, lờ đờ, mê mờ, con cần phải đánh thức, phải khuấy động sự Tỉnh Giác; còn khi Tâm phân tán và trạo cử, con phải buông xả, thư giãn Tâm thật sâu hướng vào trong. Tuy nhiên, những việc này không thể tiến hành với áp lực hay sự áp đặt lên dòng Tâm Thiền đang dao động, hơn hết là con chỉ cần đơn thuần nhớ nghĩ đến việc nhận biết bản tánh của Tâm. Sự nhận biết này được duy trì liên tục, trong tất cả mọi hoàn cảnh, khi đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, và trong mỗi mỗi hoạt động, cả trong những thời tọa thiền lẫn những khoảng thời gian dừng nghỉ xen giữa. Bất cứ ý niệm nào dù vui hay buồn, hay bất kỳ trạng thái cảm xúc ô nhiễm nào hiện khởi, cứ để tất cả những ý niệm đó như chúng là, không dính mắc bằng việc hy vọng hay sợ hãi về chúng, không chối bỏ hoặc yêu thích chúng, và không cần phải nỗ lực để vô hiệu hóa chúng bằng những phương cách đối trị. Bất kể những cảm xúc nào của hỷ lạc hay khổ đau có thể xảy ra, chúng đều được để nguyên như bản chất của chúng - không bị tác động, nguyên sơ, tươi mới và sinh động. Con sẽ thấy rằng mình luôn luôn quay trở về với một-điểm-chính, vậy nên đừng lo lắng khi trong đầu con chứa đủ kiểu lý thuyết triết học. Cũng cần nhớ rằng, con không nhất thiết phải tập trung vào khía cạnh của Không tánh như là một phương pháp đối trị với những cảm xúc hay luồng suy nghĩ mang tính phán xét không mong muốn  khởi sinh. Đồng thời với việc nhận biết được sự hiện khởi thanh tịnh, tự chúng sẽ được phóng thích như một con rắn đang cuộn tròn duỗi bung thân mình.


~ Dudjom Rinpoche

(Eng Source: Padmamalla's IG)

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Trạng Thái Không Cần Dụng Công (*)

 
Khi không còn dính mắc vào các đối tượng phân biệt, con không còn phải dụng công đối với Tri Kiến của thực tại.
 
Khi không còn dính mắc vào trạng thái hôn trầm, trạo cử, sao lãng thiếu tập trung, thì việc hành Thiền chẳng còn phải dụng công.
 
Khi sự bám chấp vào những vấn đề thế gian tan biến, thì những hành xử tức thời là không cần dụng công.
 
Khi Tâm đã gột sạch khỏi những ô nhiễm, thì sự kinh nghiệm của Tâm là không cần dụng công.
 
Khi Tâm đã lìa khỏi các thứ phiền não, nó dễ dàng an trú vào tầng ý thức thanh tịnh của Pháp Thân (Tâm nguyên sơ vô phân biệt) mà chẳng cần phải dụng công.
 
Khi từ bỏ được tình cảm thiên vị, lòng bi mẫn sinh khởi mà chẳng cần dụng công.
 
Khi từ bỏ khuynh hướng bám chấp trong Tâm, hạnh bố thí chẳng còn phải dụng công.
 
Khi nhận ra tất cả những sự theo đuổi thuộc thế gian đều là hư huyễn, niềm trân trọng cuộc sống khởi sinh chẳng cần dụng công.
 
Khi hành động của con thoát khỏi ngã mạn và kiêu ngạo, mọi công việc hàng ngày con đảm trách chẳng còn phải dụng công.
 
Khi không còn sống dựa theo những mối bận tâm thế tục, sự lựa chọn sinh kế của con chẳng cần phải dụng công.

Khi không còn dự vào sự ganh đua giữa các cá nhân, mối quan hệ của con với người khác được thiết lập chẳng cần dụng công.

Khi không còn can dự vào những hành xử non nớt hướng về bản ngã, con sống trong trạng thái chẳng cần dụng công.

Khi phụng sự một vị Đạo Sư Cao Quý là hiện thân của lòng bi mẫn và trí tuệ, sự hiện diện của con chẳng cần phải dụng công.

Khi con nhận biết rằng bản tính Giác Ngộ hiện hữu nơi tất cả chúng sinh, con chẳng còn phải dụng công trong việc trưởng dưỡng tình cảm thân thiết với họ.

Khi đã thành công trong việc từ bỏ sự bám chấp, bất cứ điều gì con làm đều ở trong trạng thái chẳng cần dụng công.

Khi sự thật tương đối (Tục Đế) và sự thật tối hậu (Chân Đế) trở thành một, con chẳng cần phải dụng công để nhận biết được hạnh phúc thanh tịnh.

Khi con nhận ra mọi hình ảnh [được trông thấy] và âm thanh [được nghe thấy] đều là hư huyễn, Khổ Đau trong con tan biến mà chẳng cần phải dụng công.

Khi nhận ra được bản tánh chân thật, con chẳng cần dụng công để né tránh bạo lực và những xung đột.

Khi nhận biết được rằng những suy nghĩ chỉ là hiện tượng của Tâm, con có thể sử dụng bất kỳ đối tượng nào để hành Thiền mà chẳng cần phải dụng công.

~ Đạo Sư Liên Hoa Sinh

(*) Trạng thái dễ dàng tự nhiên sinh khởi mà không cần hoặc chỉ với rất ít sự nỗ lực.

 
THE STATE OF EFFORTLESS

When there is no attachment to duality, the view of reality is effortless.

When there is no attachment to lethargy, restlessness and mindless diversion, meditation is effortless.

When attachment to mundane concerns is dissolved, spontaneous action is effortless.

When the mind is cleansed of its mental defilement, experience is effortless.

When the mind is separated from affliction, it is effortless to reside in the pure consciousness of dharmakaya (the non-dualistic primordial mind).

When affection for partiality is removed, compassion is effortless.

When propensity to clinging is eliminated from the mind, generosity is effortless.

When recognising all worldly pursuits to be illusory, appreciation of life is effortless.

When your action is free of conceit and arrogance, your daily undertaking is effortless.

When you do not live in accordance to mundane concerns, choice of livelihood is effortless.

When you no longer engage in inter-personal rivalry, relationship with others is effortless.

When you no longer engage in immature, egocentric conduct, the state of your being is effortless.

When in attendance of a Noble Guru who is the embodiment of compassion and wisdom, one’s state of being is effortless.

When you recognise the essence of enlightenment is present in all sentient beings, it is effortless to develop familial affection towards them.

When you have succeeded in abandoning attachment, whatever you do becomes effortless.

When relative truth and ultimate truth become one, it is effortless to realise pure happiness.

When recognising visions and sounds to be illusory, it is effortless to dissolve suffering.

When realising your true nature, it is effortless to avoid exertion and conflicts.

When recognising thoughts as phenomena of the mind, it is effortless to use any object for meditation.

~ Padmasambhava

Buông Bỏ Vọng Tưởng


 
Tĩnh tọa với việc tạo ra thêm những ý nghĩ phán xét khi nhận diện được những khía cạnh cụ thể nào đó của Tâm thì không phải là con đang hành Thiền. Đó là những hoạt động của trí năng. Thực tế, chẳng có bất kỳ thứ gì để Thiền; và cũng chẳng có quá trình Thiền nào cả. Nhưng con đừng dung thứ cho những khoảnh khắc phóng Tâm. Việc lang thang khỏi trạng thái Tâm tự-giác-biết mới chính là vọng tưởng, vì thế đừng xao lãng! Bất kỳ ý niệm nào khởi lên, cứ để chúng hiện khởi, nhưng đừng theo đuổi chúng và cũng đừng ngăn chận chúng.
Vậy điều gì cần được thực hiện? Bất kỳ thông tin nào của đối tượng được tiếp nhận từ các cửa giác quan hiện khởi, chúng chỉ là sự xuất hiện của các hình thái, không phải để bám chấp vào chúng mà thay vào đó, con hãy an trú vào kinh nghiệm tươi mới nguyên sơ, giống như một đứa trẻ đi loanh quanh để nhìn ngắm một ngôi đền kỳ diệu mà không dừng trú lại bất kỳ chỗ nào. Tất cả những khoảnh khắc thuộc về hiện tượng của Tâm ở ngay đúng vị trí của chúng, hình thái của chúng không bị bóp méo, màu sắc của chúng không bị thay đổi, vẻ đẹp của chúng được để nguyên vẹn. Hơn nữa, nhờ việc giữ cho những thông tin ghi dấu nơi các cửa giác quan được tinh nguyên, không bị pha trộn với sự Tham muốn và những niệm tưởng Bám Chấp, nên tất cả những hình thái ảo huyễn do Tâm hiện khởi đều là trạng thái giác biết rõ ràng và vô phân biệt của tánh Không sáng tỏ.

Một số hành giả với căn cơ thấp có thể cảm thấy bối rối trước những giáo lý "thâm sâu và quảng đại", và nếu như Thầy có thể cô đọng nội dung ấy thành một lời khai thị có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho họ, Thầy sẽ nói rằng: Khoảng trống của sự dừng nghỉ giữa một niệm và sự khởi sinh của niệm kế tiếp chính là khoảnh khắc bất biến của Ý Thức hiện tiền (tại-đây-và-bây-giờ), chẳng phải đó là sự giác biết trọn vẹn và rõ ràng sao? Ho! Đó chắc chắn chính là thực tại thuần khiết! Và vì con không thể an trú trong không gian của sự hay biết như thị thuần khiết, nên một niệm sinh khởi là chuyện khó tránh khỏi, đúng không? Niệm tưởng đó là sự biểu hiển sáng tạo của thực tại thuần khiết! Nếu con thất bại trong việc nhận biết ý niệm ngay khi nó sinh khởi, nó sẽ sản sinh ra thêm những suy nghĩ phán xét lang thang bất định, có thể gọi tên là "chuỗi ảo vọng" và đây chính là căn nguyên của Luân Hồi. Khi con nhận biết được ý niệm lúc nó mới bắt đầu khởi và chỉ để nguyên như vậy mà không chạy theo nó, thì bất kỳ ý niệm nào sinh khởi cũng đều lập tức được giải phóng vào trong thực tại thuần khiết của Pháp Thân.


~ Dudjom Rinpoche

Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2021

Lời Khuyên của Bậc Hành Giả

 


Đừng dính mắc vào hình tướng bên ngoài,
Tâm của con mới thật là vị Đạo Sư (Guru) vĩ đại.

Đừng tin mê vào những quyền năng huyễn thuật,
Sự chuyển hóa thật sự nơi Tâm mới là sức mạnh mầu nhiệm cao quý.

Đừng dựa dẫm vào lực gia trì,
Liên tục gìn giữ Tâm Chánh Niệm mới chính là nguồn đại ân phước.


~ Togden Amtrin, Thrinle Lodrö
*Hình: bên trái là Togden Amtrin và bên phải là Togden Ajam.


Do not cling the external physiognomy.
Your mind is your own real great guru.

Do not superstitious magic powers.
Real change in mind is great magic power.

Do not rely on the blessing.
Keeping Mindfulness continually is great blessing.


~ Togden Amtrin, Thrinle Lodrö
*Photo: Togden Amtrin left with Togden Ajam right.


(Eng Source: Naldjor's FB)

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2021

Quan sát Suy Nghĩ


Trong suốt vô lượng kiếp sống, con đã duy trì một niềm tin ngoan cố vào sự hiện hữu thật sự của bản thân như một cá thể và của mọi hiện tượng như là toàn thể. Sự bám chấp vào niềm tin này ảnh hưởng lên con là quá sức mạnh mẽ khiến con khó có thể tự giải thoát mình khỏi nó qua việc chỉ đơn thuần bác bỏ sự hiện hữu của chúng. Điều thật sự cần thiết đối với con là việc bản thân con phải nhận thấy rõ ràng và trực tiếp rằng không có 'Tôi' hay bất kỳ một hiện tượng nào có một thực thể dưới bất kỳ hình thức nào.
Nếu như con cố gắng ngăn chặn dòng chảy của một con suối bằng cách bịt nó lại bằng tay hay dùng một viên đá để ngăn lấp, áp lực của dòng nước có thể sẽ áp đảo những nổ lực của con trong vòng vài giây. Tương tự, một cố gắng nào để ngăn chặn những dòng chảy mạnh mẽ của ý niệm thường khởi sinh trong lúc con hành thiền sẽ chắc chắn thất bại, thậm chí có thể mang đến những vấn đề nguy hiểm về mặt tâm lý. Những suy nghĩ và cảm xúc mà con cố gắng đè nén sẽ lại khởi hiện và trở thành giống như những kẻ thù của con trong khi hành thiền.

Phương pháp đúng đắn là việc nhận ra rằng những ý nghĩ sẽ không là thứ gì thực sự trở nên hiện hữu - chúng không có điểm bắt đầu, không thể duy trì hay ngừng lại. Không quan trọng về việc chúng có thể hiện khởi nhiều bao nhiêu, nếu con biết cách phóng thích chúng ngay khoảnh khắc chúng hiện khởi, chúng sẽ không thể gây hại cho con. Thời thiền của con sẽ không bị hủy hoại bởi những suy nghĩ, và cũng không nên xem là có tiến bộ khi những suy nghĩ vắng lặng.

Những thị trấn và miền quê mà một người khách du lịch nhìn thấy qua khung cửa sổ của toa tàu lửa thì không có khả năng làm chậm đoàn tàu và đoàn tàu cũng không có tác động gì đến những hình ảnh đó. Chúng không gây phiền phức cho nhau. Đây là cách thức mà con nên quan sát những ý nghĩ khởi sinh nơi Tâm trong lúc hành thiền.


~ Dilgo Khyentse Rinpoche


(Eng Source: Padmamalla's IG)

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021

Vượt khỏi mọi Khái Niệm

 


Một trong những vai trò tôi quý trọng là gì?
Đó là những khái niệm.
Đau đớn là một khái niệm.
Sự bó buộc là một khái niệm.
Hãy an trú trong Tâm tỉnh thức vượt khỏi mọi khái niệm.
Hãy để cho cái-ngã-vượt-ra-ngoài-bản-ngã quán xét về những khái niệm và không khái niệm của: Đau và không Đau.
Cảm giác đau đớn giống như một đám mây, khởi hiện thoáng qua Tâm tỉnh thức.
Những sự bó buộc, tiếng dạ dày sôi, những cơn đau là những hình thức mãnh liệt khởi hiện khi Tâm tỉnh thức.
Hãy trú trong Tâm tỉnh thức và để cho sự tỉnh thức dần trở nên lớn mạnh hơn những cơn đau.
Trong sự tỉnh thức lớn rộng như bầu trời,
Không có chỗ cho những khái niệm trú ẩn.
Hãy để cho chúng đến. Hãy để chúng biến đi.
Có ai nắm níu những cơn đau?
Nếu bạn trở thành một với cơn đau,
Thì sẽ chẳng có ai bị thương tổn.
Đó chỉ là những cảm giác khi tâm chú ý đến và được đặt tên là "cơn đau".
Không có ai nắm giữ cơn đau cả.
Điều gì sẽ xảy ra khi không có ai nắm giữ cơn đau?
Đau chỉ là đau.
Thực chất không chỉ thế, cơn đau chỉ là một định danh (một cái tên được gán đặt).
Hãy cảm nhận những cảm giác.
Hãy vượt thoát khỏi mọi khái niệm,
Nhưng vẫn giữ sự tỉnh thức ở thực tại.
Ngoài ra, chẳng còn gì cả.
Hãy kinh nghiệm như thế.
Hãy để mọi sự như nó là.


~Yonger Mingyur Rinpoche


(Eng Source: Padmamalla's IG)

Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021

Chánh Niệm: Chiếc Gương của Tâm

Kính lễ Chánh Niệm tự sinh khởi, 
Chánh Niệm như bậc Đế Vương tối thắng! 



 
Ta là Gương Chánh niệm, 
Sáng rõ hiển bày sự Cẩn Trọng và Chánh Niệm. 
Hãy nhìn, hỡi các Kim Cương hữu! 
Nhìn vào ta, Chánh Niệm được hỗ trợ. 

Lúc này, hãy khẩn cầu Tam Bảo, 
Bất khả phân với vị Thầy - Bổn Sư!  

Không phóng tán, hãy nhìn vào bản chất của Tâm! 

Chánh Niệm là gốc rễ Giáo Pháp, 
Chánh Niệm là thực hành chính của Đạo lộ, 
Chánh Niệm làm thành trì vững chắc cho Tâm, 
Chánh Niệm làm trợ lực cho Trí Tuệ của Giác Tánh tự-hay-biết,
Chánh Niệm là thứ hỗ trợ cho Đại Ấn, Đại Toàn Thiện và Trung Quán. 

Thiếu Chánh Niệm, chúng ta bị những trở lực tiêu cực khắc chế. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta bị kiềm tỏa bởi thói biếng lười. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta phạm phải những sai lầm. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta thất bại trong việc hoàn thành những mục tiêu nhắm đến. 

Thất Niệm - giống như một đống phân! 
Thất Niệm - giống như cá giãy trên nền đất!
Thất niệm - giống như một cái xác không hồn!
 
Hãy làm cho Chánh Niệm được vững chắc, này các bạn ta! 

Nương vào những ý định chân thành của những vị Thầy cao quý, 
Nguyện cho chúng ta ngay tức thời trực nhận được Chánh Niệm chân thật của mình! 

Yêu cầu này, là một sự hối thúc để ghi nhớ Chánh Niệm, dành tặng cho những người bạn Đạo nào đã có được Pháp nhãn.
Soạn tác bởi một Tăng sĩ tệ hại mang tên Jamyang Dorje, 
Là kẻ thực sự chỉ giống như một con trâu già rụng răng.

Nguyện mọi sự cát tường! 


~Nyoshul Khen Rinpoche


Adam Pearcey chuyển dịch từ tiếng Tạng sang Anh ngữ năm 2013.
Lạc Hải Âm (Dechen Yangtso) chuyển dịch từ Anh sang Việt Ngữ ngày 01/11/2021.

(Eng Soure: Uncle Thubten Kway's FB)

Mindfulness: The Mirror of the Mind


Homage to naturally arising, king-like mindfulness!

I am the mirror of mindfulness,
Clearly revealing carefulness and mindfulness.
Look, my vajra friends!
Seeing me, mindfulness is supported.

Pray now to the Three Jewels,
Inseparable from the Lama-Guru!

Undistractedly, look into the essence of mind!

Mindfulness is the root of the Dharma,
Mindfulness is the path’s main practice,
Mindfulness is a fortress for the mind,
Mindfulness is an aid to the wisdom of self-knowing rigpa,
Mindfulness is a support for Mahāmudrā, Dzogchen and Madhyamaka.

Lacking mindfulness, we’re overcome by negative forces.
Lacking mindfulness, we’re beset by laziness.
Lacking mindfulness, we commit every wrong.
Lacking mindfulness, we fail to accomplish our aims.

Mindlessness—it’s like a pile of shit!
Mindlessness—it’s like fishing on dry land!
Mindlessness—it’s like a heartless corpse!

Make your mindfulness secure, my friends!

Through the heartfelt intentions of the precious teachers,
May we come now to recognize our own true mindfulness!

This request, a spur to remember mindfulness,
Was offered to friends who possess the eyes of Dharma
By the terrible monk called Jamyang Dorje,
Who is really just a buck-toothed ox.

Sarva mangalam!

~Nyoshul Khen Rinpoche

Translated by Adam Pearcey, 2013

(Eng Soure: Uncle Thubten Kway's FB)

Thứ Năm, 4 tháng 11, 2021

Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền

 

Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền - Đức Phật Nguyên Thủy Samantabhadra


 

Ho! Tất cả mọi thứ – hình tướng và hiện hữu, Luân Hồi và Niết Bàn, mang một nền tảng duy nhất, nhưng có hai Con Đường dẫn đến hai Kết Quả, và hiển bày một cách kỳ diệu thành Tỉnh-Thức hoặc Không-Tỉnh-Thức.

Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh đều đạt thành Phật Quả, viên mãn toàn hảo, an trú nơi cõi Pháp Giới chân như. Nền Tảng của mọi hiện tượng không do tạo tác, là không gian quảng đại vô biên tự sinh khởi, vượt ngoài sức diễn đạt, không mang danh tự Luân Hồi hay Niết Bàn. Chỉ Giác Ngộ được điều này, thì con là một vị Phật; nếu không trực nhận được nó, con là một chúng sinh lang thang trong Luân Hồi.

Ta cầu nguyện tất cả chúng sinh trong Tam Giới có thể giác ngộ được nghĩa lý chân thật của Nền Tảng không thể diễn bày này.

Ta, Phổ Hiền, đã Giác Ngộ chân lý của Nền Tảng này, vượt thoát mọi Nhân Duyên, đó chỉ là Giác Tánh tự-sinh-khởi. Nó không bị nhiễm ô bởi những biểu hiện bên ngoài và ý niệm bên trong, bởi sự khẳng định hay phủ định, và không bị nhơ bẩn bởi màn đêm của Tâm thất Niệm. Như thế, sự hiển bày tự-hiện-hóa này không có những lầm lỗi.

Ta, Phổ Hiền, trú trong sự Tỉnh-Thức nội tại. Dù Tam Giới bị hủy diệt, cũng không có sợ hãi. Không có sự bám luyến vào những Dục Lạc của Năm giác quan. Trong Tánh biết tự-sinh-khởi, giải thoát mọi ý niệm, không có hình tướng nào chắc thật, kể cả Ngũ Độc. 

Trong trạng thái Tỉnh-Thức liên tục sáng rõ, tinh túy là bất nhị, vẫn hiện khởi sự phô diễn của Ngũ Trí. Khi Ngũ Trí chín muồi, Ngũ Bộ Phật Nguyên Thủy hiện lên, và thông qua sự triển khai mở rộng Trí Tuệ của chư vị, 42 vị Phật an bình xuất hiện. Khi sức mạnh của Ngũ Trí phát sinh, 60 Heruka phẫn nộ sẽ hóa hiện. Như vậy, Nền Tảng của sự Tỉnh-Thức không bao giờ nhầm lẫn hay sai lệch.

Ta, Phổ Hiền, là Phật khởi nguyên của tất thảy, và qua lời cầu nguyện này của ta, nguyện cho tất cả chúng sinh lang thang trong Tam Giới Luân Hồi trực nhận được Giác Tánh tự-sinh-khởi, và nguyện cho Tuệ Giác vĩ đại của họ cũng tự nhiên tăng trưởng.

Hàng tỷ hóa thân của ta sẽ liên tục xuất hiện theo vô số cách không thể nghĩ bàn, xuất hiện trong nhiều hình tướng để trợ giúp những chúng sinh cần được rèn luyện. Ngay từ ban đầu, chúng sinh đều bị mê lầm bởi đã không nhận ra được Giác Tánh Nền Tảng.

Như vậy, sống bằng Tâm thất Niệm trước những gì xảy ra chính là Mê Lầm – trạng thái Không-Tỉnh-Giác và là nguyên nhân của sự lạc lối. Từ trạng thái Mê Lầm này kéo đến cơn bất tỉnh đột ngột làm kích khởi nỗi sợ hãi chao động trong tầng ý thức vi tế.

Từ cơn chao động đó, nảy sinh khái niệm phân biệt về “ta” và nhận thức “chúng sinh khác” như là “kẻ đối nghịch”. Dần dần, xu hướng phân biệt này càng mạnh mẽ hơn, và từ đây, vòng Luân Hồi bắt đầu.

Tiếp đến, những cảm xúc của Ngũ Độc phát triển – những hành xử từ các cảm xúc đó chẳng bao giờ kết thúc. Chúng sinh sống mà không có Tỉnh Thức do mất Chánh Niệm, và đây là căn bản cho việc họ lạc đường.

Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh nhận ra được Giác Tánh nội tại! Sự Không-Tỉnh-Giác vốn do Tâm Thất Niệm và Xao Lãng. Để cho Thất Niệm xảy ra nghĩa là đưa vào những ý niệm phân biệt nhị nguyên giữa “ta” và “chúng sinh khác”. Cả hai trường hợp Thất Niệm này là những cơ sở cho sự mê lầm của tất cả chúng sinh.
Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh lang thang trong luân hồi sẽ xóa tan màn sương mù tối của sự Thất Niệm, xóa tan những ý niệm bám chấp nhị nguyên!

Nguyện tất cả chúng sinh trực nhận được sự Tỉnh Thức nội tại của chính mình! Các tư tưởng nhị nguyên tạo nên Nghi Hoặc, do những bám chấp vi tế vào những tư tưởng nhị nguyên này khiến cho khuynh hướng Tâm phân biệt càng trở nên mạnh mẽ và sâu dày hơn. Thực phẩm, của cải, y phục, nhà cửa và bạn bè, Năm đối tượng của các giác quan và gia đình thân yêu - tất cả những thứ này gây ra sự đau khổ bằng cách tạo ra niềm khát khao và dục vọng. Đây là tất cả những mê lầm trần tục; là những hoạt động của sự tham lam và bám chấp bất tận. Khi Quả của sự Tham Luyến chín muồi, chúng sinh sẽ tái sinh làm Quỷ Đói, chịu dày vò bởi sự thèm muốn và dục vọng, khốn khổ của đói và khát.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh nào mang dục vọng và ham muốn do những bám chấp, không chối bỏ ham muốn dục vọng, cũng không thuận theo những tham luyến trước các dục. Hãy để ý thức buông thư trong trạng thái thái tự nhiên của chính nó, sau đó sẽ có thể duy trì được sự Tỉnh-Thức. Nguyện cho chúng sinh đạt được Tuệ Giác sáng suốt toàn hảo!

Khi các đối tượng bên ngoài xuất hiện, ý thức vi tế của sự nỗi sợ sẽ sinh khởi. Từ nỗi sợ hãi này, tập khí sân giận trở nên ngày càng mạnh mẽ. Cuối cùng, thái độ thù địch xuất hiện, gây ra hành vi bạo lực và tàn sát. Khi Quả của niềm Sân Giận này chín muồi, chúng sinh phải chị đau đớn trong địa ngục nấu sôi và thiêu cháy.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh trong Sáu Cõi, khi cơn sân giận mãnh liệt khởi sinh, không chối bỏ hay thuận theo nó. Thay vào đó hãy buông xả trong trạng thái tự nhiên và đạt được Tuệ Giác sáng rõ!

Khi Tâm trở nên đầy ngạo mạn, những tư tưởng hơn thua (kiêu mạn) và nhục mạ kẻ khác sẽ khởi sinh. Khi niềm Kiêu Mạn này ngày càng mạnh mẽ hơn, chúng sinh sẽ nếm trải sự đau khổ của những cuộc cãi vã và lăng mạ. Khi Quả của nghiệp này chín muồi, chúng sinh đó sẽ tái sinh vào các cõi Trời và nếm trải nỗi đau khổ của sự thay đổi và đọa lạc vào những cõi tái sinh thấp hơn.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh có Tâm kiêu mạn tăng trưởng, buông xả được ý thức của họ trong trạng thái tự nhiên và có thể duy trì được trạng thái Tỉnh Giác. Nguyện cho họ đạt được Trí Tuệ của Tánh Bình Đẳng!

Do tăng trưởng thói quen phân biệt nhị nguyên, do tự ca ngợi bản thân và chê bai kẻ khác, Tâm đua tranh, tỵ hiềm  dẫn đến sự bùng khởi chiến tranh, và chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi Trời đố kỵ (Asura), nơi chỉ toàn giết chóc và thương tích. Từ Quả của hành vi sát hại, chúng sinh đó sẽ đọa vào cảnh giới Địa Ngục.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh khi khởi lên những tư tưởng tỵ hiềm và ganh đua, không xem những ý niệm này là kẻ thù. Họ chỉ cần buông xả trong thư thái thì ý thức có thể trụ vào trạng thái tự nhiên. Nguyện chúng sinh đạt được Tuệ Giác của hành động không trở ngại!

Do tán Tâm, bất cẩn và thất niệm, chúng sinh trở nên đờ đẫn, mờ tối và đãng trí. Do thiếu ý thức và lười nhác mà vô minh tăng trưởng, và Quả của sự vô minh này là cuộc lang thang bất lực trong cõi Súc Sanh. 

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh đã rơi vào hố đen của vô minh phát tỏa ánh sáng của Chánh Niệm, và nhờ đó đạt được Tuệ Giác vô niệm.
Tất cả chúng sinh trong Tam Giới thực chất giống hệt chư Phật, bởi đều có cùng một Nền Tảng. Nhưng sự lầm lẫn về Nền Tảng khiến cho chúng sinh lạc lối, rồi hành xử không có mục tiêu. Sáu Nghiệp Hành chỉ là ảo ảnh, tựa một giấc mơ. Ta là vị Phật Nguyên Thủy, ở đây để uốn nắn Sáu loại chúng sinh thông qua tất cả những hóa hiện.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh không chừa sót chứng đạt Giác Ngộ trong trong trạng thái của Pháp Giới chân như.

Ah Ho! Trong tương lai, bất cứ khi nào một hành giả có năng lực mạnh mẽ, trong trạng thái Tỉnh-Giác rạng rỡ và không mê lầm, trì tụng bài cầu nguyện đầy oai lực này, thì tất cả chúng sinh nào nghe thấy sẽ đạt được Giác Ngộ trong vòng ba kiếp sống.

Trong kỳ nhật thực hoặc nguyệt thực, trong khi xảy ra động đất hoặc khi quả địa cầu vang rền, vào các ngày lập chí (hạ chí và đông chí) hoặc thời khắc giao thừa, hành giả nên quán tưởng Đức Phổ Hiền và  tụng đọc bài nguyện lớn tiếng để tất cả có thể nghe thấy, thì chúng sinh trong ba cõi sẽ dần được giải thoát khỏi khổ đau. Thông qua lời cầu nguyện của hành giả, cuối cùng, họ sẽ đạt được Giác Ngộ.

Bài nguyện này được trích trong Chương 9 của Những Giáo Huấn về Pháp Đại Toàn Thiện từ Gongpa Zangthal, Những Bảo Tạng Phía Bắc được phát lộ bởi vị Khai Mật Tạng Rigdzin Gödem. Vào ngày Trăng Rằm tháng thứ bảy năm Kim Mùi (1991) theo Tạng lịch, bài cầu nguyện này đã được chuyển sang Anh Ngữ bởi Bậc Đáng Kính Bhaka Tulku Rinpoche tại Berkeley, Californica, với sự trợ giúp của Lunpo Urgyan Thondup. <Link pdf http://www.rigdzindharma.org/uploads/6/9/5/6/6956478/prayer_of_kuntuzangpo.pdf >
 
Lạc Hải Âm (Dechen Yangtso) chuyển Việt Ngữ vào ngày Trăng Non kết thúc tháng Saga Dawa năm Kim Tí (2020) theo Tạng Lịch, trong khoảng thời gian xảy ra Nhật Thực Vành Khuyên tại một số nơi trên địa cầu trong đó có Việt Nam, Nepal, Ấn Độ... Hiệu đính lần cuối ngày 01/11/21. Nguyện mọi sự cát tường!
 
[Mời bạn tải bản pdf tại đây]

Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

Hiểu Đúng về Thiền

Thiền không phải luôn luôn gắn liền với ý nghĩa là ngồi yên ở đâu đó với cặp mắt lim dim. Đó chỉ là một cách hành Thiền. Nó có nghĩa là con đang làm việc với những kinh nghiệm về Không tánh. Nếu thông qua kiểu kinh nghiệm này con phát triển được Trí Tư (khả năng tư duy, suy xét), thì phần thực hành của con may ra mới "thật sự" trở thành Chánh Tư Duy - còn nếu không phải vậy, thì chỉ là con đang duy trì trong trạng thái Rỗng Không hay còn gọi là Shunyata.

...Tư Duy chân chánh và thực thụ nghĩa là sống trong Thực Tại (hoàn cảnh thực tế), một cảnh thực tại không chỉ chứa đựng Không tánh, mà còn gồm cả điều chúng ta gọi là "sự biến chuyển". Vậy nên, nếu một người không có khả năng kết hợp hoặc sống trong sự biến chuyển đó, thì người này còn cách khá xa với thực tại.
Nếu như con thật sự hiểu biết về những giáo huấn của Mật Điển, con sẽ biết cách làm thế nào để "ở trong động" và cũng cùng lúc đó, con duy trì trạng thái Tư Duy. Thế thì, nếu như con nhảy múa suốt ngày, hay tĩnh toạ bất động cả ngày, sẽ chẳng có gì là khác biệt cả. Có lẽ, hành giả nào có thể kết hợp [tu tập] trong động thì có thể sẽ chứng đạt Giác Ngộ nhanh hơn, đây là lý do vì sao mà hành động được áp dụng nhiều hơn trong những giáo huấn Mật Điển. Như con có thể thấy, có sự chuyển động ngay cả trong luồng năng lượng của chính con, vậy nên trong Mật Thừa, phương tiện chuyển hóa đòi hỏi sự kết hợp mọi thứ vào trong nguyên lý trên.
Ta không nói rằng việc kết hợp hay thâm nhập được Trí Tư [đến mức độ như thế] là dễ dàng, nó cần thời gian dài và chẳng dễ dàng một chút nào cả.


~Namkhai Norbu Rinpoche(English Soure: Vajra Wisdom's IG)






Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Tu Tập Nội Bồ Đề Tâm

B.TU TẬP NỘI BỒ ĐỀ TÂM (BỒ ĐỀ TÂM BÊN TRONG)

 

Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Hành giả nên luyện tập thế nào khi phát khởi Bồ Đề Tâm theo con đường bên trong?

Đạo Sư đáp: Theo đó, có mười hai điểm tu tập.

1. CỐT TỦY

Cốt tủy là sự khởi phát ý định giúp đỡ những chúng sinh không nhận biết được rằng: Bản tánh bẩm sinh, thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu), là không do tạo tác.

2. ĐỊNH NGHĨA

Không phụ thuộc vào những hành động “bên ngoài” của Thân hay Khẩu, nó được gọi là “nội” Bồ Đề Tâm vì chỉ được triển khai riêng bởi Tâm con.

3. SỰ PHÂN CHIA

Được phân thành hai: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Nguyện Ước là ước muốn những chúng sanh nào chưa giác ngộ được bản tánh này có thể nhận ra nó. Chỉ ngồi yên và lẩm nhẩm điều này thì chưa đủ; Con phải nỗ lực trong mọi điều kiện để giúp cho tất cả chúng sanh nhận ra nó.

Tsogyal, chừng nào con chưa (tự) giải thoát khỏi sự bám chấp nhị nguyên thì việc Hành Dụng sẽ còn khá khó khăn.

4. NHỮNG TỐ CHẤT CỦA HÀNH GIẢ

Bao hàm những phần giảng giải trước, đặc điểm của hành giả dấn thân vào con đường tu tập này là chỉ dùng những khái niệm tạo tác ở mức độ tối thiểu.

Tsogyal, hãy để cho Tâm con nghỉ ngơi!

5. ĐỐI TƯỢNG ĐỂ THỌ NHẬN

Con cần lãnh thọ từ một Đạo Sư đã chứng ngộ bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã) thông qua sự tu tập Ba Trí (Văn, Tư, Tu), và nhờ đó đã thoát khỏi Tám Mối Bận Tâm Thế Gian.

Tsogyal, một Đạo Sư là thiết yếu để con bước vào cánh cổng của giáo lý Đại Thừa.

6. NGHI LỄ THỌ NHẬN

Hãy tự giải thoát mình khỏi Ba Lớp Ý Niệm (ba phạm vi: đối tượng, chủ thể, hành vi), từ bỏ sự bận tâm đến tất cả các hoạt động thế gian, và như thế, con hãy thỉnh cầu để nhận lấy những hướng dẫn khẩu truyền chân thật.

7. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP

Con sẽ nâng tầm vượt xa trên Tiểu Thừa và những con đường sai lạc. Từ đó, việc thực hành sẽ phát huy hiệu lực giúp con từ bỏ mọi tư duy ích kỷ và chấp thủ nhị nguyên, để rồi con sẽ chứng ngộ bản tánh Vô Ngã.

8. NGUYÊN DO TU TẬP

Nguyên do cần tu tập phát khởi Bồ Đề Tâm theo cách thức từ bên trong là đưa tất cả chúng sanh vào con đường chân thật, đó là bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã).

9. NHỮNG LỖI LẦM KHI KHÔNG TU TẬP

Khuyết điểm khi không tu tập là con sẽ đi lạc khỏi bản tánh Vô Ngã.

Những người bình phàm với Tâm thức chưa có sự chuyển đổi nhờ (cơ sở lý luận của) một trường phái triết học Phật Giáo nào đó, và với đối tượng không liên quan đến Phật Giáo-là những người đã thâm nhập vào một trường phái triết học sai lạc, thì "bản ngã" của họ được xem như là "một con người" kiểm soát và kinh nghiệm Ngũ Uẩn, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới. Hơn nữa, khi cho rằng "bản ngã" này là trường cửu, là vững chắc, họ chấp chặt vào nó, từ đó tạo lập khái niệm "bạn" và "thù", "ta" và "người khác".

Tsogyal, con phải nhổ lên cây cọc của sự chấp thủ.

Mối nguy hiểm của việc khái niệm hóa một "cái Tôi cá nhân" là khi hiểu lầm có một bản ngã và một cái-Tôi-có-thực, thì những đối tượng sẽ xuất hiện như là “thứ gì khác” [biệt lập với cái-Tôi-cá-nhân]. Vì dính mắc vào tư tưởng phân biệt như vậy, con sẽ xem những gì lợi ích cho “cái Tôi” là Bạn, và những gì gây tổn hại cho “cái Tôi” là Thù. Từ đó, những kinh nghiệm của ái luyến và ghét bỏ sẽ khiến con phạm vào nhiều loại hành vi bất thiện. Do những hành động này, con sẽ lang thang trong ba cõi thấp và khắp chốn Luân Hồi.

Tsogyal, nếu không trục xuất Tâm thức độc hại này, con sẽ không tìm được hạnh phúc.

Đối tượng hành giả nào bác bỏ [sự thực có] của "bản ngã"? Nói chung, nó bị bác bỏ bởi tất cả Phật tử. Nói riêng, chư Thanh Văn Giác đặc biệt phá trừ chấp ngã. Dĩ nhiên, những hành giả đã nhập môn Đại Thừa cũng phá bỏ sự chấp thủ vào một cái-Tôi-cá-thể. 

Có lời tuyên bố cho rằng chư Thanh Văn Giác thì chứng ngộ một phần bản chất của hiện tượng và chư vị Độc Giác cũng không chứng ngộ điều đó hoàn toàn. Nghĩa là hàng Thanh Văn khẳng định nhầm lẫn về sự hiện hữu của các yếu tố vật chất (tức chấp thủ Sắc Pháp thực hữu) thay vì cần phải liễu tri rằng bản tánh của mọi hiện tượng (kể cả vật chất và tinh thần - cả Sắc Pháp và Danh Pháp) thảy đều Vô Ngã, còn chư Độc Giác Phật thì lại dính mắc vào sự an trú trong trạng thái tinh túy rỗng lặng của Tâm thay vì thấu suốt thực nghĩa (để lìa bỏ cả trạng thái đó).

Tsogyal, chừng nào con chưa thoát khỏi những tín điều thuộc những trường phái triết học thấp,  con sẽ không lãnh hội được thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu).

Sự nguy hiểm của việc tạo lập nên khái niệm bản thể của hiện tượng là: một khi con đã quyết đoán và chấp chặt vào điều này, con sẽ tạo ra những phiền não. Chính chúng là Nhân dẫn con lang thang trong luân hồi. Cho dù nỗ lực trong bao nhiêu kỳ kiếp [nhưng nếu không ý thức được điều này] thì mọi cố gắng [giải thoát] của con là vô nghĩa. 

Đối tượng hành giả nào bác bỏ bản thể của hiện tượng? Nói chung, tất cả hành giả Đại Thừa đều bác bỏ nó. Nói riêng, sẽ là một tín hiệu xấu nếu như chúng ta đã bước vào cánh cổng Chân Ngôn Bí Mật mà còn chấp thủ thiên kiến, theo đó, những hành giả thuộc Trung Đạo cũng bác bỏ nó.

10. NHỮNG ĐIỂM CẦN TUÂN THỦ.

Con nên tu tập trong nghĩa lý Vô Ngã, điều này có hai loại: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Ba điểm trọng yếu của Nguyện (Ước) phải được dõi sát như sau.

1. Không ngừng thiết lập Nguyện (Ước) với suy nghĩ: Mong rằng tất cả chúng sanh luôn nhận ra lý tánh Vô Ngã.

2. Tu tập ngày ba thời, đêm ba thời trong sự tùy hỷ với người khác là những hành giả đang thiền định về ý nghĩa của Vô Ngã.

3. Luôn tự rèn luyện mình một cách tinh cần [trong nỗ lực] không để bản thân lạc khỏi ý nghĩa của Vô Ngã.

Thứ hai, Hành (Dụng) cần phải dõi sát trong hai khía cạnh thuộc bên trong và bên ngoài.

💎 Bốn sự tu tập bên ngoài là:

1. Không lìa xa Đạo Sư hay người bạn tâm linh đã giảng dạy con ý nghĩa của Vô Ngã cho đến khi con chứng ngộ nó.

2. Buông bỏ thiên kiến liên quan đến nơi chốn cư trú, đất nước hay vùng miền, địa vị chức tước, thù và bạn.

3. Học hỏi, suy tư và thiền định về giáo lý minh giải (giải thích và chứng minh) về Vô Ngã và Không tánh.

4. Không chấp vào tự ngã [và nghĩ rằng có một "cái Tôi"] đang tồn tại vì có danh tính, gia đình, hay thân thể [chắc thật].

💎 Bốn sự tu tập bên trong là:

1. Chớ hiểu rằng những tên gọi [được xã hội gán đặt và sử dụng] là những sự vật thực sự tồn tại, vì mọi nhãn hiệu và tên gọi của sự vật bên ngoài thì không hiện hữu trong Tâm con.

2. Hãy nhận thức rằng mọi thứ tạo lập nên thế giới cùng tất cả chúng sinh trong đó đều vô tự tánh (không có bản thể thực sự), dù có xuất hiện thì cũng chỉ như những giấc mộng và ảo huyễn.

3. Ngày ba thời, đêm ba thời, con hãy tìm cho ra sự bám chấp vào các đối tượng khác nhau của Tâm, dù thực chất chẳng có thứ gì thật sự tồn tại.

4. Giữ mình không lạc khỏi thực nghĩa - vốn không có bất kỳ tên gọi (khái niệm) và những cực đoan nào. Dẫu cho có tìm kiếm Tâm mình, thì nó cũng chẳng thể được tìm thấy như là bất cứ thứ gì.

Đó là những điều tối quan trọng để con tự tinh tấn rèn luyện theo con đường này. Nhờ thực hành theo con đường này, con sẽ trừ diệt được những tâm thức độc hại và dứt bỏ được Luân Hồi.

11. RANH GIỚI GIỮA VIỆC ĐƯỢC VÀ MẤT GIỚI NGUYỆN

Khoảnh khắc lãnh thọ Nội Giới Bồ Đề Tâm (Bồ Đề Tâm bên trong) là khi con nhận được những hướng dẫn khẩu truyền từ Đạo Sư của con.

Lúc mất nguyện là khi con chạy theo những bám chấp nhị nguyên thông thường mà không ý thức về việc bản thể không [thực sự] tồn tại. Ngay lúc bị mất [và nhận ra], hãy áp dụng phương pháp đối trị thật dứt khoát!

12. PHƯƠNG PHÁP PHỤC HỒI GIỚI NGUYỆN HƯ TỔN

Gìn giữ sự tu tập không sao lãng những nghĩa lý vừa giải thích trên, con sẽ tự động tháo cởi đượt nút thắt (sự trói buộc) của [tư tưởng] chấp thủ nhị nguyên.

~ Guru Padmasambhava 

(Trích dịch từ Quyển Giáo Huấn Chư Dakini, NXB Rangjung Yeshe, 1999)

[Mời bạn xem thêm nội dung và tải bản pdf tại đây]


 

Thứ Năm, 28 tháng 10, 2021

Nền Tảng Giác Ngộ

 

Điểm khác biệt giữa chư Phật và chúng sinh là chúng sinh luôn "bận rộn chế tác". Sự "thức tỉnh vốn có" nơi chúng ta lại trở nên biến đổi và giả dối. Nó trở thành [thứ gì đó] được tạo tác. Và nếu cứ tiếp tục như thế càng lâu bao nhiêu thì chúng ta sẽ lang thang trong Luân Hồi lâu bấy nhiêu. Thay vào đó, chúng ta cần giác ngộ bản tánh của Tâm. Ngay lúc này, tôi đang giải thích nó để các bạn có đôi chút khái niệm, hiểu về nó là như thế nào. Bước kế tiếp là bạn phải tự trải nghiệm. Chỉ hiểu bản tánh Tâm ra sao trên mặt trí thức thì ko đủ; bạn cần thật sự nếm trải nó, và cuối cùng chứng ngộ nó. Hãy luyện tập cho đến khi nó không còn bị gián đoạn.

Một người [gọi là] được khai mở vào tánh Không - là việc nhận ra tánh Không chính là "sự thức tỉnh tự giác biết" (self-cognizant wakefulness). Sự tỉnh thức không hư dối này gọi là "cái biết". Mỗi cá nhân đều có tiềm năng này. "Bản tánh" của các bạn là "Không tánh" và "tính chất" của các bạn là sự "rõ biết", cũng giống như tính chất của Lửa là Nóng. Tâm thì Vô Tự Tánh, nhưng nó mang năng lực "hay biết"; tính chất của nó là "tự nhiên hay biết". Hai phương diện này hợp nhất gọi là "Cái Biết Rỗng Không" (Empty Cognizance).Việc lãnh hội điều này rất quan trọng. Nếu ko, chúng ta có thể nghĩ rằng Trạng Thái Giác Ngộ là một thứ gì đó chúng ta cần tạo ra và đạt được - có thể là gì đó mà vị Thầy 'ban cho' ta, hay có lẽ là thứ chúng ta 'tạo ra được' sau nhiều năm tu luyện. Nó Ko phải như thế! Trọng tâm của vấn đề chỉ đơn thuần là trạng thái phân tán hay ko bị xao lãng khỏi "cái biết về sự thức tỉnh hiện tiền". Tâm phóng tán là một chúng sinh; Tâm bất động là một vị Phật. Tâm bất động là sự giác ngộ được bản tánh. Ko có sự nỗ lực trong việc thật sự chứng ngộ bản tánh; nó không cần dụng công.

~ Tulku Urgyen Rinpoche

 (Eng Soure: Padmamalla's IG)


 

Những chỉ dẫn thuộc Đại Ấn

 

 

Những Chỉ Dẫn thuộc Đại Ấn về Định, Sinh Khởi và Tỉnh Giác 


Nếu con có thể đơn thuần thực hành Đại Ấn và kinh nghiệm Định, Sinh Khởi và Tỉnh Giác thông qua những chỉ dẫn thực hành trọng yếu, thì cuối cùng con sẽ trực nhận được chân lý thực tại. Điều này xảy ra vì bản tánh Tâm của con có Phật Tánh. Hãy áp dụng những hướng dẫn mấu chốt có liên quan như sau:

🗝️ Nền tảng của tất cả mọi thứ là Tâm. Sau khi hiểu được bí mật của Tâm, hãy truy tìm điểm cốt yếu của Tâm con và rồi con sẽ trở nên thiện xảo trong tất cả mọi thứ cũng như sẽ giác ngộ được nghĩa lý Vô Ngã. 

🗝️Vì ta đang giảng dạy giáo lý khẩu truyền của những bậc Chứng Ngộ, các lý luận thẩm sát sẽ được bỏ qua. 

🌟Định là khi con nhìn vào Tâm mình, trực diện vào bên trong, và con trú trong trạng thái vắng lặng mọi suy nghĩ. 
🌟Sinh Khởi là khi những loại tư tưởng khác nhau hiện khởi. 
🌟Tỉnh Giác là khi Tâm con nhận biết được cả 2 trường hợp vừa nêu.

🗝️ Nếu duy trì thực hành liên tục như vậy, dần dần con sẽ hiểu đc điểm trọng yếu là: những cảm xúc khác nhau như Vui hay Buồn khởi hiện trong Tâm con và nó cũng tan biến lại vào trong Tâm. Hiểu dc như vậy, con tiến đến việc thấu suốt rằng tất cả những trải nghiệm đều là những kinh nghiệm riêng của Tâm.

🗝️ Rồi sau đó, bằng cách nhìn thẳng vào bản tánh Tâm, dù nó đang vắng lặng hay đang suy nghĩ, con sẽ hiểu nó vốn "rỗng không"; cho dù Tâm nhận thức được nhiều thứ, nhưng nó chẳng có bất kỳ một thực thể nào. Như vậy, "rỗng không" không phải là trống rỗng như hư không. Chính xác hơn là, con sẽ thấu suốt rằng [bản tánh] Tâm là Không nhưng lại hàm chứa tất cả những phương diện tối thắng. Điều này nghĩa là Tâm không có Tự Tánh, nhưng nó có sự sáng rõ không ngừng dứt - chính là sự giác biết (tỉnh giác và hay biết) một cách toàn diện.

⚙️Khi con giác ngộ được điểm bí mật này của Tâm, mặc dù không có sự tách biệt giữa người quan sát và đối tượng để quan sát, việc trải nghiệm trạng thái sáng rõ và bản tánh tinh túy của Tâm một cách tự nhiên được gọi là "trực nhận sự tỉnh giác". Đây là điểm đc nêu ra trong cả Đại Ấn và Đại Viên Mãn.

🗝️ Theo Sahara, nếu con duy trì đc trạng thái đó, "Bằng cách liên tục hết lần này đến lần khác nhìn vào bản tánh vốn thanh tịnh của hư không (primordially pure nature of space) , thì sự quan sát sẽ ngừng lại". Như Kinh Bát Nhã Qua Bờ (Prajnaparamita) thuyết rằng, "Tâm vốn không Tâm; tính chất của Tâm là sáng rõ."

⚙️ Không có gì đơn giản hơn vậy, nhưng điều thiết yếu là phải thực hành. 

~ Mipham Rinpoche

 (Eng Soure: Padmamalla's IG)


 

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...