Hiển thị các bài đăng có nhãn Kim Cương Thừa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kim Cương Thừa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2022

Bài Ca Kim Cương - Tám Điều Thuần Thục


Không tách lìa những hiện Tướng và tánh Không,
Đây là Tri Kiến đã thuần thục như chính nó có thể là.

Không còn thấy rằng những cơn mộng và lúc thức là khác nhau,
Đây chính là Thiền Định như nó có thể là.

Khi Lạc và Không chẳng còn là hai tính chất riêng biệt,
Đây chính là Hành Dụng (Hạnh) đã thuần thục như nó có thể là.

Không còn thấy Hiện Tại và Tương Lai là khác biệt,
Đây chính là Bản Chất của chúng đã được thuần thục như nó có thể là.

Không còn thấy Tâm và Hư Không là khác biệt,
Đây chính là Pháp Thân như nó có thể là.

Khi Khổ Đau và Hạnh Phúc chẳng còn là hai điều đối lập,
Đây là chỉ dẫn đã được thuần thục như nó có thể là.

Không còn thấy rằng những xúc tình Phiền Não và Tuệ Giác là khác biệt nữa,
đây là trạng thái Toàn Thiện mà sự chứng đạt có thể là.

Không còn nhìn thấy Tâm con và Phật là khác biệt,
Đây là Quả Viên Mãn như nó có thể là.


~ Milarepa
(Lạc Hải Âm chuyển ngữ)


MILAREPA

A VAJRA SONG
EIGHT KINDS OF MASTERY

Not separating appearance and emptiness
This is view as mastered as it can be

Not seeing dreams and day as differing
This is as meditation as it can be

Not bliss and emptiness seen as differing
This is conduct as mastered as it can be

Not seeing the here and hereafter as differing
This is their nature as mastered as it can be

Not seeing mind and space as differing
This is as dharmakaya as it can be

When pleasure and pain are not two different things
This is instruction as mastered as it can be

Not seeing affliction and wisdom as differing
This is as full as realization can be

Not seeing your mind and buddha as differing
This is as full a fruition as it can be.


~ Milarepa



Thứ Ba, 11 tháng 1, 2022

Cốt Lõi của việc hành Thiền



Khi niệm tưởng chuyển động, chỉ cần nhận biết "người đang suy tưởng" thì những niệm tưởng đó sẽ tan biến. Dù những suy nghĩ có liên hệ đến vấn đề gì đi nữa cũng không quan trọng, bởi quá trình suy nghĩ và người đang suy tưởng là rỗng không. Bản thân một ý niệm không do bất kỳ thứ vật chất cụ thể nào tạo tác nên, nó chỉ đơn giản là những luồng chuyển động của những ý niệm rỗng không. Bằng việc nhận biết Không tánh trong một niệm khởi, nó lập tức biến mất giống như bong bóng nước vỡ tan. Đó là cách làm thế nào để lập tức đối phó với bất kỳ ý niệm cụ thể nào đang khởi sinh. Một khi bạn biết cách làm cho niệm tưởng hiện tại tan biến, bất kỳ ý nghĩ nào tiếp tục khởi lên cũng có thể được xử lý chính xác theo cùng cách thức như vậy, nó cũng chỉ là một ý niệm khởi sinh ở khoảnh khắc thực tại. Còn nếu như chúng ta tham gia vào tiến trình suy nghĩ, suy tưởng về những gì đang nghĩ đến, và cứ tiếp tục tiến trình đó thì nó sẽ không có điểm dừng.

Chính do tiến trình suy nghĩ đã thúc đẩy hoặc bức bách chúng ta phải tiếp tục hiện hữu thêm trong Luân Hồi. Khi chúng ta bị dính mắc vào trong những ý nghĩ của riêng mình, cuộc Luân Hồi sẽ không ngừng lại. Mặt khác, bất cứ ý niệm nào cũng đều rỗng Không, nó chẳng hàm chứa thứ vật chất rắn chắc nào trong nó. Điều này rất dễ thấy, bởi vì ngay khoảnh khắc bạn hay biết về tánh Không của Tâm, suy nghĩ biến mất ngay lập tức. Các ý nghĩ tan biến vào trong tính chất rỗng không, vào trong bản chất nền tảng của bạn, chính là Không tánh. Không sót lại bất kỳ một vết tích nào. Đó là cách duy nhất để giải quyết vấn đề. Khi bạn nhận biết được bản chất của mình, những ý niệm bị "hành quyết" ngay tại chỗ: nó hoàn toàn bị xóa sạch.

Luân Hồi được tạo nên khi chúng ta để Tâm hướng ra bên ngoài qua các cánh cửa của năm giác quan. Chúng ta tập trung vào một đối tượng thông qua mắt, hoặc tai, hoặc mũi, lưỡi, thân và rồi tạo tác nên những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng này. Có thể trông có vẻ như là có các loại ý thức khác nhau thông qua các cửa giác quan khác nhau, nhưng thực chất chỉ có một Tâm luân phiên chộp bắt lấy các đối tượng qua các cửa giác quan. Một ví dụ truyền thống minh họa cho việc này là hình ảnh của một con khỉ bị nhốt trong căn phòng trống có năm cửa sổ, nó nhảy nhót xung quanh không ngừng nghỉ và liên tục nhìn ra ngoài qua khung cửa này đến khung cửa khác. Một người đứng quan sát bên ngoài có thể nghĩ rằng có rất nhiều khỉ trong căn phòng đó, nhưng thực tế thì chỉ có một con. Nếu bạn có thể bắt và trói con khỉ đó lại, thì sẽ chẳng có con khỉ nào khác chạy nhảy vòng quanh nữa. Nói cách khác, phương thức để bắt được con khỉ chính là làm cho những suy nghĩ tan biến đi.

Một ví dụ khác là hình ảnh một đám cháy bùng lên ở giữa nhà và khói tuôn ra ngoài qua tất cả các khe hở của ngôi nhà. Nếu bạn tạt một xô nước vào giữa đám cháy, ngọn lửa sẽ lụi tắt, và khói cũng đồng thời biến mất ở mọi phương hướng. 'Khói' là một ví dụ thể hiện cho tính chất rỗng không; cũng giống như những suy nghĩ chỉ là sự hiển bày của Pháp Thân (thân tinh túy). Chính nó không phải Pháp Thân, nhưng nó là một sự hiện hóa từ bản chất nền tảng. Giống như bản chất nền tảng của chúng ta, sự hóa hiện này cũng không hàm chứa bất cứ thứ vật chất rắn chắc nào.

Việc thuyết giảng trọng yếu không bao giờ chỉ để nhận biết được Tâm phân biệt. Bởi điều đó là những gì mà tất cả chúng sinh đang làm trong mọi lúc - để ý vào những cảm xúc và suy nghĩ rồi hành xử theo chúng. Những chỉ dẫn cho việc hành Thiền không phải là để kéo dài mãi mãi công việc này, nó không chỉ để thấy ra được Tâm phân biệt, những niệm tưởng phân biệt. Mà hơn thế, những chỉ dẫn là để nhận ra được bản chất của Tâm thức. Đây là điểm khác biệt vô cùng quan trọng. Việc một người bị dính mắc vào trong suy nghĩ và hành xử dựa trên những cảm xúc chính là nguyên nhân tạo ra vòng Luân Hồi bất tận. Đây là kết quả của việc bị dính mắc vào trong những hiện tượng huyễn hóa mà không hiểu biết được bản chất của chúng là gì.


~ Tulku Urgyen Rinpoche


When a thought moves, simply recognise the thinker. The thinking then dissolves. No matter what the thought is about, the thinking and the thinker are empty. A thought in itself is not made of any concrete substance; it is simply an empty thought movement. By recognising the empty essence in a thought, it vanishes like a bubble in water. That is how to deal with any particular present thought at hand. Once you know how to let the present thought dissolve, any subsequent thought can be dealt with in exactly the same way, as simply another present thought. But if we get involved in the thought, thinking of what is being thought of, and continue it, then there is no end.

It is our thinking that propels us or forces us into further samsaric existence. As long as we get caught up in our own thinking, samsara doesn’t stop. On the other hand, any thought is an empty thought, in that it has no concrete substance to it whatsoever. It is very easy to no­tice this, because the moment you recognise mind essence, the thought dissolves right there. The thought vanishes into your empty essence, into your basic nature which is emptiness. There is no remnant whatso­ever. That is the only way to solve the problem. When recognising your essence, the thought is executed on the spot; it is totally obliterated.

Samsara is created when we let our mind extrovert through the five senses. We focus on an object through our eyes, or through the ears, or the nose, and make thoughts and emotions about this object. It may seem like we have different consciousnesses through the different senses, but actually it is one mind that alternately grabs at objects through the various senses. The traditional example for this is of a monkey in an empty room with five windows, restlessly jumping around and looking out through one window after the other. An out­side observer might think there are a lot of monkeys in that room, but in fact there is only one. If you catch hold of that monkey and tie it up, there is no jumping around any more. In other words, the way to cap­ture the monkey is by dissolving the thought.

Another example is of a fireplace in the middle of the house, with smoke coming out through all the openings. If you throw a bucket of water in the middle, the flames are extinguished, and the smoke si­multaneously disappears in all directions. ‘Smoke’ is an example for the expression of the essence; just as thoughts are the expression of dharmakaya [essence body]. They are not dharmakaya itself, but they are a manifestation of our basic nature. Just like our basic nature, this manifestation has no concrete substance to it.

The essential teaching is never to just recognise dualistic mind. That is what all sentient beings are doing all the time—noticing their feel­ings and thoughts, and then acting upon them. The meditation in­struction is not to perpetuate that; it is more than simply recognising dualistic mind, dualistic thinking. Rather, it is to recognise the essence of this mind. That is the crucial difference. Being caught up in one’s thoughts and acting upon these feelings is the cause of endless samsara. This is being caught up in the expression and not knowing the essence itself.


~ Tulku Urgyen Rinpoche

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Những Thứ Dễ Gây Lầm Lạc


Nếu con hiểu được rằng tất cả những hình tướng dối lừa đang hiện hữu của thế gian đều không thật về bản chất, chúng sẽ không thể khiến con lầm lạc.

Nếu con có lòng dính chấp cho rằng những người bạn và kẻ thù là thật có, họ sẽ khiến con lầm lạc. Nhưng nếu con giữ được Tâm bình đẳng trước cả hai đối tượng, họ sẽ không thể lừa dối và dẫn con lạc bước.

Nếu con thấy được nhiều sự thay đổi và biến chuyển, chúng có thể gây nên lầm lạc. Nhưng nếu con thấu hiểu được bản chất thật sự vượt ra ngoài những đổi thay, chúng sẽ không gây nên lầm lạc.

Nếu con bám chấp vào thực tại của Sinh và Tử thì con đang bị đánh lừa quá mức. Nhưng nếu con nhận biết được là chẳng có sự Sinh và Tử nào cả, thì cũng là lúc không còn sự dối lừa nào.

Nếu con tin vào sự hiện hữu của Khổ Đau thì con đang chịu nhiều sự lừa dối. Còn khi con nhận ra rằng thực chất không có gì là Khổ Đau, thì sự dối lừa ấy cũng không còn.

Nếu con tin rằng bản thân và người khác là tách biệt thì chính con đang bị dối gạt. Còn khi con nhận ra rằng cả hai chẳng phải là hai cá thể riêng biệt, thì cũng không còn sự dối gạt.

Nếu con hiểu được bản chất thật sự của sự dối gạt thì những niệm tưởng lan man sẽ được giải thoát ngay tại chỗ.

~ Khenpo Tsultrim Rinpoche
(Eng Source: Heart of Buddhism Kindness's IG)

Tánh Không và Nghiệp Lý


Nói chung, chúng ta không nên nghĩ rằng bằng việc phát triển sự thấu hiểu về Tánh không, bản chất tối hậu của thực tại, chúng ta sẽ chạm đến cảnh giới hoàn toàn rỗng không, trong đó không còn Nghiệp, không còn hình tướng, không có bất cứ gì cả. Sự trống không như vậy không hề tồn tại. Nếu khảo sát về việc sinh khởi của hiện tượng, chúng ta sẽ tiến đến kết luận rằng không phải là không có một hiện tượng nào sinh khởi, mà thực chất là không có một hiện tượng nào rắn chắc và có thật được sinh ra.
Điều này hoàn toàn thích đáng với lý thuyết về Nghiệp Quả, vì nếu như có một đối tượng chắc đặc được sinh ra mà không hàm chứa trong nó Không tánh, thì quy luật Nghiệp Quả cũng không thể vận hành. Vì nếu như có một Nhân riêng biệt, cụ thể nào đó có mặt và Quả của nó tự động sinh ra; với kết quả đã tự động sinh khởi như vậy, một Nhân sẽ không thể cho Quả trong kỳ hạn lâu xa, ví dụ, Quả ở những kiếp vị lai. Vậy nên, nguyên lý về Không tánh không bác bỏ, mà lại củng cố cho Nghiệp lý. Khi chúng ta có được sự thấu suốt về bản chất thật sự, cách thức thật sự của hiện tượng là, thì chúng ta không chối bỏ quy luật về Nghiệp, mặt khác, chúng ta đạt được một niềm tin vững chắc vào Nghiệp lý vì nó được tánh Không bổ trợ.
Lấy thí dụ về việc soi gương. Nếu thật có gì đó từ khuôn mặt con dịch chuyển sang tấm gương, nếu như khuôn mặt thật của con phải nhập vào trong tấm gương trước khi con có thể thấy được hình ảnh phản chiếu, thì hình ảnh phản chiếu của con sẽ không thể xuất hiện trên nhiều mặt gương. Tuy nhiên, khi có những điều kiện thích hợp, những hình ảnh phản chiếu hiện lên gương mà không thật có một sự kết nối sẵn nào giữa nguyên nhân (khuôn mặt con) và kết quả (ảnh phản chiếu).
Nhờ vào tánh Không trong mối liên hệ giữa Nhân, những Duyên (điều kiện) thứ yếu, và Quả nên Nghiệp chúng ta tạo tác trong đời này mới có khả năng trổ Quả ở một thời điểm xa xôi nào đó trong một kiếp sống vị lai.


~ Khenchen Thrangu Rinpoche


(Eng Source: Padmamalla's IG)

Những Vấn Đề khi Hành Thiền

 

Khi Tâm chùn xuống, lờ đờ, mê mờ, con cần phải đánh thức, phải khuấy động sự Tỉnh Giác; còn khi Tâm phân tán và trạo cử, con phải buông xả, thư giãn Tâm thật sâu hướng vào trong. Tuy nhiên, những việc này không thể tiến hành với áp lực hay sự áp đặt lên dòng Tâm Thiền đang dao động, hơn hết là con chỉ cần đơn thuần nhớ nghĩ đến việc nhận biết bản tánh của Tâm. Sự nhận biết này được duy trì liên tục, trong tất cả mọi hoàn cảnh, khi đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, và trong mỗi mỗi hoạt động, cả trong những thời tọa thiền lẫn những khoảng thời gian dừng nghỉ xen giữa. Bất cứ ý niệm nào dù vui hay buồn, hay bất kỳ trạng thái cảm xúc ô nhiễm nào hiện khởi, cứ để tất cả những ý niệm đó như chúng là, không dính mắc bằng việc hy vọng hay sợ hãi về chúng, không chối bỏ hoặc yêu thích chúng, và không cần phải nỗ lực để vô hiệu hóa chúng bằng những phương cách đối trị. Bất kể những cảm xúc nào của hỷ lạc hay khổ đau có thể xảy ra, chúng đều được để nguyên như bản chất của chúng - không bị tác động, nguyên sơ, tươi mới và sinh động. Con sẽ thấy rằng mình luôn luôn quay trở về với một-điểm-chính, vậy nên đừng lo lắng khi trong đầu con chứa đủ kiểu lý thuyết triết học. Cũng cần nhớ rằng, con không nhất thiết phải tập trung vào khía cạnh của Không tánh như là một phương pháp đối trị với những cảm xúc hay luồng suy nghĩ mang tính phán xét không mong muốn  khởi sinh. Đồng thời với việc nhận biết được sự hiện khởi thanh tịnh, tự chúng sẽ được phóng thích như một con rắn đang cuộn tròn duỗi bung thân mình.


~ Dudjom Rinpoche

(Eng Source: Padmamalla's IG)

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Trạng Thái Không Cần Dụng Công (*)

 
Khi không còn dính mắc vào các đối tượng phân biệt, con không còn phải dụng công đối với Tri Kiến của thực tại.
 
Khi không còn dính mắc vào trạng thái hôn trầm, trạo cử, sao lãng thiếu tập trung, thì việc hành Thiền chẳng còn phải dụng công.
 
Khi sự bám chấp vào những vấn đề thế gian tan biến, thì những hành xử tức thời là không cần dụng công.
 
Khi Tâm đã gột sạch khỏi những ô nhiễm, thì sự kinh nghiệm của Tâm là không cần dụng công.
 
Khi Tâm đã lìa khỏi các thứ phiền não, nó dễ dàng an trú vào tầng ý thức thanh tịnh của Pháp Thân (Tâm nguyên sơ vô phân biệt) mà chẳng cần phải dụng công.
 
Khi từ bỏ được tình cảm thiên vị, lòng bi mẫn sinh khởi mà chẳng cần dụng công.
 
Khi từ bỏ khuynh hướng bám chấp trong Tâm, hạnh bố thí chẳng còn phải dụng công.
 
Khi nhận ra tất cả những sự theo đuổi thuộc thế gian đều là hư huyễn, niềm trân trọng cuộc sống khởi sinh chẳng cần dụng công.
 
Khi hành động của con thoát khỏi ngã mạn và kiêu ngạo, mọi công việc hàng ngày con đảm trách chẳng còn phải dụng công.
 
Khi không còn sống dựa theo những mối bận tâm thế tục, sự lựa chọn sinh kế của con chẳng cần phải dụng công.

Khi không còn dự vào sự ganh đua giữa các cá nhân, mối quan hệ của con với người khác được thiết lập chẳng cần dụng công.

Khi không còn can dự vào những hành xử non nớt hướng về bản ngã, con sống trong trạng thái chẳng cần dụng công.

Khi phụng sự một vị Đạo Sư Cao Quý là hiện thân của lòng bi mẫn và trí tuệ, sự hiện diện của con chẳng cần phải dụng công.

Khi con nhận biết rằng bản tính Giác Ngộ hiện hữu nơi tất cả chúng sinh, con chẳng còn phải dụng công trong việc trưởng dưỡng tình cảm thân thiết với họ.

Khi đã thành công trong việc từ bỏ sự bám chấp, bất cứ điều gì con làm đều ở trong trạng thái chẳng cần dụng công.

Khi sự thật tương đối (Tục Đế) và sự thật tối hậu (Chân Đế) trở thành một, con chẳng cần phải dụng công để nhận biết được hạnh phúc thanh tịnh.

Khi con nhận ra mọi hình ảnh [được trông thấy] và âm thanh [được nghe thấy] đều là hư huyễn, Khổ Đau trong con tan biến mà chẳng cần phải dụng công.

Khi nhận ra được bản tánh chân thật, con chẳng cần dụng công để né tránh bạo lực và những xung đột.

Khi nhận biết được rằng những suy nghĩ chỉ là hiện tượng của Tâm, con có thể sử dụng bất kỳ đối tượng nào để hành Thiền mà chẳng cần phải dụng công.

~ Đạo Sư Liên Hoa Sinh

(*) Trạng thái dễ dàng tự nhiên sinh khởi mà không cần hoặc chỉ với rất ít sự nỗ lực.

 
THE STATE OF EFFORTLESS

When there is no attachment to duality, the view of reality is effortless.

When there is no attachment to lethargy, restlessness and mindless diversion, meditation is effortless.

When attachment to mundane concerns is dissolved, spontaneous action is effortless.

When the mind is cleansed of its mental defilement, experience is effortless.

When the mind is separated from affliction, it is effortless to reside in the pure consciousness of dharmakaya (the non-dualistic primordial mind).

When affection for partiality is removed, compassion is effortless.

When propensity to clinging is eliminated from the mind, generosity is effortless.

When recognising all worldly pursuits to be illusory, appreciation of life is effortless.

When your action is free of conceit and arrogance, your daily undertaking is effortless.

When you do not live in accordance to mundane concerns, choice of livelihood is effortless.

When you no longer engage in inter-personal rivalry, relationship with others is effortless.

When you no longer engage in immature, egocentric conduct, the state of your being is effortless.

When in attendance of a Noble Guru who is the embodiment of compassion and wisdom, one’s state of being is effortless.

When you recognise the essence of enlightenment is present in all sentient beings, it is effortless to develop familial affection towards them.

When you have succeeded in abandoning attachment, whatever you do becomes effortless.

When relative truth and ultimate truth become one, it is effortless to realise pure happiness.

When recognising visions and sounds to be illusory, it is effortless to dissolve suffering.

When realising your true nature, it is effortless to avoid exertion and conflicts.

When recognising thoughts as phenomena of the mind, it is effortless to use any object for meditation.

~ Padmasambhava

Buông Bỏ Vọng Tưởng


 
Tĩnh tọa với việc tạo ra thêm những ý nghĩ phán xét khi nhận diện được những khía cạnh cụ thể nào đó của Tâm thì không phải là con đang hành Thiền. Đó là những hoạt động của trí năng. Thực tế, chẳng có bất kỳ thứ gì để Thiền; và cũng chẳng có quá trình Thiền nào cả. Nhưng con đừng dung thứ cho những khoảnh khắc phóng Tâm. Việc lang thang khỏi trạng thái Tâm tự-giác-biết mới chính là vọng tưởng, vì thế đừng xao lãng! Bất kỳ ý niệm nào khởi lên, cứ để chúng hiện khởi, nhưng đừng theo đuổi chúng và cũng đừng ngăn chận chúng.
Vậy điều gì cần được thực hiện? Bất kỳ thông tin nào của đối tượng được tiếp nhận từ các cửa giác quan hiện khởi, chúng chỉ là sự xuất hiện của các hình thái, không phải để bám chấp vào chúng mà thay vào đó, con hãy an trú vào kinh nghiệm tươi mới nguyên sơ, giống như một đứa trẻ đi loanh quanh để nhìn ngắm một ngôi đền kỳ diệu mà không dừng trú lại bất kỳ chỗ nào. Tất cả những khoảnh khắc thuộc về hiện tượng của Tâm ở ngay đúng vị trí của chúng, hình thái của chúng không bị bóp méo, màu sắc của chúng không bị thay đổi, vẻ đẹp của chúng được để nguyên vẹn. Hơn nữa, nhờ việc giữ cho những thông tin ghi dấu nơi các cửa giác quan được tinh nguyên, không bị pha trộn với sự Tham muốn và những niệm tưởng Bám Chấp, nên tất cả những hình thái ảo huyễn do Tâm hiện khởi đều là trạng thái giác biết rõ ràng và vô phân biệt của tánh Không sáng tỏ.

Một số hành giả với căn cơ thấp có thể cảm thấy bối rối trước những giáo lý "thâm sâu và quảng đại", và nếu như Thầy có thể cô đọng nội dung ấy thành một lời khai thị có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho họ, Thầy sẽ nói rằng: Khoảng trống của sự dừng nghỉ giữa một niệm và sự khởi sinh của niệm kế tiếp chính là khoảnh khắc bất biến của Ý Thức hiện tiền (tại-đây-và-bây-giờ), chẳng phải đó là sự giác biết trọn vẹn và rõ ràng sao? Ho! Đó chắc chắn chính là thực tại thuần khiết! Và vì con không thể an trú trong không gian của sự hay biết như thị thuần khiết, nên một niệm sinh khởi là chuyện khó tránh khỏi, đúng không? Niệm tưởng đó là sự biểu hiển sáng tạo của thực tại thuần khiết! Nếu con thất bại trong việc nhận biết ý niệm ngay khi nó sinh khởi, nó sẽ sản sinh ra thêm những suy nghĩ phán xét lang thang bất định, có thể gọi tên là "chuỗi ảo vọng" và đây chính là căn nguyên của Luân Hồi. Khi con nhận biết được ý niệm lúc nó mới bắt đầu khởi và chỉ để nguyên như vậy mà không chạy theo nó, thì bất kỳ ý niệm nào sinh khởi cũng đều lập tức được giải phóng vào trong thực tại thuần khiết của Pháp Thân.


~ Dudjom Rinpoche

Phật Giáo Là Gì và Không Phải Là Gì?


 
Người ta thường hỏi tôi rằng: "Tóm gọn lại thì Phật Giáo là gì?" Hoặc họ hỏi, "Cái nhìn cụ thể hay tư tưởng Triết học riêng của Phật Giáo là gì?"

Thật không may cho phương Tây, tại đây, Phật Giáo dường như đã đổ bộ vào trong giới hạn của các thứ Tôn Giáo, ngay cả trong phạm vi tự-lực hoặc lãnh vực tự-cải-tiến, và rõ ràng là nó đang tồn tại trong xu hướng thuộc lĩnh vực Thiền tập. Tôi muốn đưa ra lời thách thức trong việc xác lập một định nghĩa phổ biến về việc tu Thiền của Phật Giáo.

Nhiều người nghĩ rằng Thiền là hành động gì đó phải tiến hành với sự thư giãn, với việc ngắm nhìn cảnh hoàng hôn hoặc những con sóng ở bãi biển. Những cụm từ thật duyên dáng như "buông xả" và "sống thảnh thơi" thường xuất hiện trong Tâm. Theo quan điểm nhìn nhận của Phật Giáo thì việc hành Thiền cần một chút gì đó nhiều hơn như vậy.

Đầu tiên, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải xác định bối cảnh thật sự của Thiền Phật Giáo. Điều này được gọi là Tri Kiến, Thiền Tập và Hành Động; nếu gộp chung lại với nhau thì sự phối hợp của Kiến-Thiền-Hành là một cách khá khéo léo để thấu hiểu về Đạo lộ (con đường dẫn đến Giải Thoát). Mặc dù chúng ta không thể sử dụng cách biểu đạt như vậy trong cuộc sống hàng ngày, nhưng nếu suy nghĩ về nó thì chúng ta luôn luôn có thể hành xử đúng theo hình thái Kiến-Thiền-Hành. Ví dụ, nếu muốn mua một chiếc xe hơi, chúng ta sẽ chọn chiếc nào mình nghĩ là tốt nhất, đáng tin cậy nhất và v.v... Vậy thì, "Tri Kiến" trong trường hợp này là ý tưởng, hoặc là niềm tin rằng chúng ta sẽ có một chiếc xe tốt. Tiếp đến, "Thiền Tập" là việc suy tư và làm quen dần với ý tưởng đó, và "Hành Động" là việc chúng ta thật sự mua chiếc xe, lái xe và sử dụng nó. Quá trình này không nhất thiết phải là một điều gì đó liên quan đến Phật Giáo, nó là việc mà chúng ta luôn tiến hành vào mọi thời điểm. Bạn không cần phải gọi nó là Tri Kiến, Thiền Tập và Hành Động. Bạn có thể nghĩ về nó như là "ý tưởng" khởi đầu, "làm quen" với ý tưởng và thật sự "đạt được" như ý tưởng ấy.

Vậy thì Tri Kiến cụ thể mà một Phật tử cần cố gắng trở nên quen thuộc là gì? - Phật Giáo được phân biệt và nhận dạng bởi bốn tính chất, hay còn gọi là "bốn dấu ấn". Thực chất, nếu như tất cả bốn dấu ấn này được tìm thấy trong một con đường (Đạo lộ) hoặc một Triết lý nào đó, thì việc gọi tên nó là Phật Giáo hay không chẳng còn quan trọng nữa. Bạn có thể gọi nó bằng bất cứ tên gì bạn thích; những từ ngữ như "Phật tử" hoặc "Phật Giáo" không còn quan trọng. Điểm chính yếu là nếu như Đạo lộ nào có chứa bốn dấu ấn này, nó có thể được xem là con đường của Đức Phật.

Do vậy, bốn đặc điểm có tên gọi là "Bốn Pháp Ấn", bao gồm:

Tất cả mọi thứ được chắp ghép nên đều Vô Thường.

Tất cả các cảm xúc đều Khổ Đau. Đây là điều mà chỉ có Phật tử mới đề cập đến. Nhiều Tôn Giáo tôn thờ tình yêu thương với những ngày lễ kỷ niệm cùng các bài Thánh ca. Nhưng Phật tử thì nghĩ rằng, "Những điều đó cũng chỉ toàn là Đau Khổ".

Tất cả mọi hiện tượng đều có bản chất là Không; chúng vốn không thật sự tồn tại. Điều này thực chất là Tri Kiến rốt ráo của Phật Giáo, ba điều kia lấy Pháp Ấn thứ ba này làm nền tảng.

Pháp Ấn thứ tư là Niết Bàn vượt ra ngoài mọi Cực Đoan.

Nếu không có bốn Pháp Ấn này, con đường của Phật Giáo sẽ trở thành hữu thần, chấp chứa những giáo điều tín ngưỡng, và toàn bộ mục đích của Phật Giáo cũng sẽ bị mất đi. Mặt khác, bạn có thể gặp một huấn luyện viên lướt ván, người này có thể chỉ dẫn cho bạn những giáo lý về cách thức ngồi ngắm hoàng hôn trên bãi biển: nếu những gì ông ấy nói hàm chứa tất cả bốn Pháp Ấn, nó sẽ là Phật Giáo. Những người Tây Tạng, Trung Quốc, hoặc Nhật bản có thể không thích sự thật này, nhưng việc thuyết giảng Phật Pháp thì không nhất thiết chỉ gói gọn trong một hình thức liên quan đến "truyền thống". Bốn Pháp Ấn khá tương quan với nhau, rồi bạn sẽ hiểu rõ hơn khi tham khảo những nội dung tiếp theo.

Mời quí vị tải và đọc đầy đủ nội dung tại đây

Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2021

Lời Khuyên của Bậc Hành Giả

 


Đừng dính mắc vào hình tướng bên ngoài,
Tâm của con mới thật là vị Đạo Sư (Guru) vĩ đại.

Đừng tin mê vào những quyền năng huyễn thuật,
Sự chuyển hóa thật sự nơi Tâm mới là sức mạnh mầu nhiệm cao quý.

Đừng dựa dẫm vào lực gia trì,
Liên tục gìn giữ Tâm Chánh Niệm mới chính là nguồn đại ân phước.


~ Togden Amtrin, Thrinle Lodrö
*Hình: bên trái là Togden Amtrin và bên phải là Togden Ajam.


Do not cling the external physiognomy.
Your mind is your own real great guru.

Do not superstitious magic powers.
Real change in mind is great magic power.

Do not rely on the blessing.
Keeping Mindfulness continually is great blessing.


~ Togden Amtrin, Thrinle Lodrö
*Photo: Togden Amtrin left with Togden Ajam right.


(Eng Source: Naldjor's FB)

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2021

Quan sát Suy Nghĩ


Trong suốt vô lượng kiếp sống, con đã duy trì một niềm tin ngoan cố vào sự hiện hữu thật sự của bản thân như một cá thể và của mọi hiện tượng như là toàn thể. Sự bám chấp vào niềm tin này ảnh hưởng lên con là quá sức mạnh mẽ khiến con khó có thể tự giải thoát mình khỏi nó qua việc chỉ đơn thuần bác bỏ sự hiện hữu của chúng. Điều thật sự cần thiết đối với con là việc bản thân con phải nhận thấy rõ ràng và trực tiếp rằng không có 'Tôi' hay bất kỳ một hiện tượng nào có một thực thể dưới bất kỳ hình thức nào.
Nếu như con cố gắng ngăn chặn dòng chảy của một con suối bằng cách bịt nó lại bằng tay hay dùng một viên đá để ngăn lấp, áp lực của dòng nước có thể sẽ áp đảo những nổ lực của con trong vòng vài giây. Tương tự, một cố gắng nào để ngăn chặn những dòng chảy mạnh mẽ của ý niệm thường khởi sinh trong lúc con hành thiền sẽ chắc chắn thất bại, thậm chí có thể mang đến những vấn đề nguy hiểm về mặt tâm lý. Những suy nghĩ và cảm xúc mà con cố gắng đè nén sẽ lại khởi hiện và trở thành giống như những kẻ thù của con trong khi hành thiền.

Phương pháp đúng đắn là việc nhận ra rằng những ý nghĩ sẽ không là thứ gì thực sự trở nên hiện hữu - chúng không có điểm bắt đầu, không thể duy trì hay ngừng lại. Không quan trọng về việc chúng có thể hiện khởi nhiều bao nhiêu, nếu con biết cách phóng thích chúng ngay khoảnh khắc chúng hiện khởi, chúng sẽ không thể gây hại cho con. Thời thiền của con sẽ không bị hủy hoại bởi những suy nghĩ, và cũng không nên xem là có tiến bộ khi những suy nghĩ vắng lặng.

Những thị trấn và miền quê mà một người khách du lịch nhìn thấy qua khung cửa sổ của toa tàu lửa thì không có khả năng làm chậm đoàn tàu và đoàn tàu cũng không có tác động gì đến những hình ảnh đó. Chúng không gây phiền phức cho nhau. Đây là cách thức mà con nên quan sát những ý nghĩ khởi sinh nơi Tâm trong lúc hành thiền.


~ Dilgo Khyentse Rinpoche


(Eng Source: Padmamalla's IG)

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021

Vượt khỏi mọi Khái Niệm

 


Một trong những vai trò tôi quý trọng là gì?
Đó là những khái niệm.
Đau đớn là một khái niệm.
Sự bó buộc là một khái niệm.
Hãy an trú trong Tâm tỉnh thức vượt khỏi mọi khái niệm.
Hãy để cho cái-ngã-vượt-ra-ngoài-bản-ngã quán xét về những khái niệm và không khái niệm của: Đau và không Đau.
Cảm giác đau đớn giống như một đám mây, khởi hiện thoáng qua Tâm tỉnh thức.
Những sự bó buộc, tiếng dạ dày sôi, những cơn đau là những hình thức mãnh liệt khởi hiện khi Tâm tỉnh thức.
Hãy trú trong Tâm tỉnh thức và để cho sự tỉnh thức dần trở nên lớn mạnh hơn những cơn đau.
Trong sự tỉnh thức lớn rộng như bầu trời,
Không có chỗ cho những khái niệm trú ẩn.
Hãy để cho chúng đến. Hãy để chúng biến đi.
Có ai nắm níu những cơn đau?
Nếu bạn trở thành một với cơn đau,
Thì sẽ chẳng có ai bị thương tổn.
Đó chỉ là những cảm giác khi tâm chú ý đến và được đặt tên là "cơn đau".
Không có ai nắm giữ cơn đau cả.
Điều gì sẽ xảy ra khi không có ai nắm giữ cơn đau?
Đau chỉ là đau.
Thực chất không chỉ thế, cơn đau chỉ là một định danh (một cái tên được gán đặt).
Hãy cảm nhận những cảm giác.
Hãy vượt thoát khỏi mọi khái niệm,
Nhưng vẫn giữ sự tỉnh thức ở thực tại.
Ngoài ra, chẳng còn gì cả.
Hãy kinh nghiệm như thế.
Hãy để mọi sự như nó là.


~Yonger Mingyur Rinpoche


(Eng Source: Padmamalla's IG)

Thứ Ba, 23 tháng 11, 2021

Xả Ly



Xả Ly không phải mang ý nghĩa là bạn thay đổi màu da, đắp y hoặc không trang điểm. Mọi người, mỗi con người chúng ta đều cần học hạnh Xả Ly. Có phải điều này đồng nghĩa với việc phải từ bỏ thứ gì đó? - Vâng, đúng vậy - tất cả chúng ta phải xả bỏ thứ gì đó - nhưng thứ mà chúng ta cần từ bỏ ấy thì tùy thuộc vào quyết định của mỗi cá nhân; mỗi chúng ta phải tự kiểm tra lại mình xem thử những suy nghĩ cực đoan nào thường xuất hiện trong Tâm và một khi chúng ta xác định được chúng là những tư tưởng nào rồi thì chúng ta nên ung dung giải quyết chúng. Đó là cách thức để Xả Ly ... tức là xử lý những tư tưởng cực đoan theo cách thức thật thong thả. 

Tôi không cần phải nói cho bạn về những đặc điểm liên quan đến những cảm xúc phiền não của bạn - hẳn là bạn đã tự kinh nghiệm tình huống "khi Tôi không có được món này hay món kia, Tôi phát cáu lên được!" Như thế, bạn có thể tìm ra điều bạn cần phải làm để điều- chỉnh-lại-chính-mình khi hướng đến mục tiêu hạnh phúc. Đây là ý nghĩa tôi muốn chia sẻ khi đề cập đến trạng thái ung dung trong vấn đề Xả Ly. Tuy nhiên, tôi sẽ không đề cập về những chi tiết của hạnh Xả Ly, mà chỉ nói về bản chất cốt lõi của nó. Mỗi chúng ta phải hiểu được sự đa cảm và những cảm xúc thô thiển của mình, những vấn đề chúng mang lại và phương pháp để điều chỉnh chúng. Đó chính là Xả Ly.

Khi Lama Je Tsongkhapa giảng giải về hạnh Xả Ly trong những phần giáo huấn Lamrim (Đạo Lộ tu tập) của Ngài, Ngài đã phân tích vô cùng tỉ mỉ về sự xung đột trong bản ngã, những hệ lụy của nó, làm thế nào và tại sao một người trở nên bất mãn, vì vậy bạn có thể tự mình nghiên cứu phần giảng luận sâu rộng ấy.

Nếu nghiên cứu và học hỏi, bạn sẽ nhận ra rằng thực chất việc Xả Ly không hề đơn giản. Theo quan điểm Phật Giáo, nó có nghĩa là bạn đang học tập về chính mình bằng việc hiểu ra cách thức bản ngã hoạt động thế nào trong Tâm bạn và làm thế nào nó hiển bày qua những tình huống của đời sống cũng như các mối quan hệ của bạn. Vì thế, nó cần rất nhiều Trí Tuệ. Bạn không thể chỉ nói rằng, "Ồ, tôi phải xả ly", và rồi tự đè nén bản thân. Nó không hề hoạt động theo cách đó. Xả Ly và Thiền Tập phải đi cùng nhau.


~ Lama Thubten Yeshe


(Eng Source: Padmamalla's IG)

Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021

Gây Hấn chẳng giúp ích gì!

 

Theo truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa, nếu Tâm của bạn đầy tính công kích, bạn không thể làm gì đúng đắn được. Mặt khác, nếu Tâm có sự hiện diện của niềm say mê thì có khả năng là bạn sẽ tiến hành được các hoạt động [một cách tốt đẹp]. Trên thực tế, những tài năng nghệ thuật thường có phần nào đó liên quan tương ứng đến mức độ đam mê, hoặc sự hứng thú mạnh mẽ đối với những phẩm tính hấp dẫn của sự việc. Tính ưa tìm hiểu và dò xét thì chính xác là ngược hẳn với thói gây hấn, công kích. Khi tò mò, trong bạn có cảm giác muốn dò tìm khắp mọi ngóc ngách và muốn khám phá tất cả các khả năng của hoàn cảnh. Sự tò mò được kích khởi bởi những gì bạn đã kinh nghiệm, những gì bạn đã thấy, đã nghe, và như thế bạn bắt đầu quên đi thói hung hăng gây hấn của mình. Cùng lúc đó, Tâm của bạn cũng khá thoải mái, nó đang bị hấp dẫn bởi một niềm say mê lớn hơn. Khi ở trong trạng thái mê đắm, bạn bắt đầu thích thú thế giới, và bạn bắt đầu bị thu hút bởi một số thứ nào đó - hẳn nhiên là điều tốt. Rõ ràng, sự thu hút kiểu đó cũng đòi hỏi việc phải sở hữu và một số chuyện liên quan đến ý nghĩa "phạm vi" đi kèm về sau. Nhưng tính cởi mở cùng với sự mê say thuần túy - không nước, không đá, không soda - là tốt. Nó có thể uống được; nó cũng là thức ăn nữa; bạn có thể sống nhờ nó. Thật khá tuyệt diệu khi chúng ta có niềm đam mê, là thứ chúng ta không tạo nên chỉ vì thích công kích và gây gổ. Nó như là một hình thức tiết kiệm cho sự phong nhã mà chúng ta sở hữu, một điều hết sức tuyệt vời. Chúng ta nên cảm ơn Tri Kiến (lối nhìn/tầm nhìn) của Mặt Trời Phương Đông Vĩ Đại. Nếu như không có niềm đam mê, sẽ không có gì có thể được kinh nghiệm, không việc gì có thể được tiến hành. Tính ưa công kích và gây hấn sẽ đem đến những cảm xúc tiêu cực nơi bản thân mình - cho dù [trong trường hợp] chúng ta thấy mình đúng đắn một cách ghê gớm nghĩ rằng ta là người duy nhất nắm chắc lẽ phải, hay dù [trong trường hợp] cảm thấy tức giận vì ai đó đang hủy diệt mình [vì họ chỉ ra điểm sai nơi ta]. Điều này thật là thảm hại! Nó ngăn cản chúng ta nhìn thấy được những thứ thiện lành căn bản.


~ Chögyam Trungpa Rinpoche

(Eng Source: Uncle Thubten Kway's FB)


Aggression Does Not Work


The purpose of dharma art is to overcome aggression. According to the Buddhist vajrayana tradition, if your mind is overcome by aggression, you cannot function properly. On the other hand, if your mind is preoccupied with passion, there are possibilities. In fact, artistic talent is somewhat related to the level of passion, or heightened interest in the intriguing qualities of things. Inquisitiveness is precisely the opposite of aggression. You experience inquisitiveness when there's a sense of wanting to explore every corner and discover every possibility of the situation. You are so intrigued by what you've experienced, what you've seen, and what you've heard that you begin to forget your aggression. At once, your mind is at ease, seduced into greater passion. When you are in a passionate state, you begin to like the world, and you begin to be attracted to certain things-which is good. Obviously, such attraction also entails possessiveness and some sense of territoriality, which comes later. But straightforward, pure passion - without water, without ice, without soda - is good. It is drinkable; it is also food; you can live on it. It's quite marvelous that we have passion, that we are not made purely out of aggression. It's some kind of saving grace that we possess, which is fantastic. We should be thankful to the Great Eastern Sun vision. Without passion, nothing can be experienced; nothing can be worked on. With aggression, we have bad feelings about ourselves; either we feel tremendously righteous, that we are the only ones who are right, or we feel pissed off that somebody is destroying us. That is pathetic. It prevents us from seeing basic goodness."


~Chögyam Trungpa Rinpoche


(Eng Source: Uncle Thubten Kway's FB)

Nỗi Sợ Hãi Về Cái Chết

 


Sợ hãi về Cái Chết, thưa các Quý ông, không có gì khác hơn là một người tự cho rằng mình thông thái, những điều không biết tự cho rằng mình biết. Không ai biết được Cái Chết có thể chẳng phải là ân phước lớn lao dành cho một người, nhưng con người sợ hãi Cái Chết như thể họ tin chắc đó là thảm họa khủng khiếp nhất. Và rõ ràng, đây là sự ngu dốt đáng trách nhất khi tin vào kẻ đang tự cho mình biết những gì hắn không biết.

                                                               ~ Socrates


Tại sao tất cả chúng ta lại cảm thấy sợ hãi cái chết? Có nhiều nguyên nhân, nhưng chính yếu bởi vì cái chết là một lĩnh vực hoàn toàn không được nhận biết. Không có ai trong số những ngƣời quen trở về từ cái chết để nói cho chúng ta biết chết là gì. Và nếu như có người nào đã làm như vậy, liệu chúng ta có tin họ không

Cái chết là một điều bí ẩn, mặc dù chúng ta không có bất kỳ ý tưởng nào về những gì sẽ xảy ra sau khi chết, chúng ta vẫn tự tạo nên tất cả những giả thuyết xung quanh nó. Chúng ta cho rằng khi đã chết thì không thể trở về nhà; rằng sau khi chết, ta sẽ không bao giờ có thể ngồi lại trên chiếc ghế tràng kỷ yêu thích. Chúng ta nghĩ: nếu tôi chết, tôi sẽ không thể xem Thế Vận Hội kế tiếp hoặc khám phá ra ai sẽ là diễn viên chính cho bộ phim Trinh Sát mới. Nhưng tất cả chỉ là phỏng đoán của mỗi người. Điểm máu chốt, đơn giản là, ta không biết gì cả. Và chính sự không biết khiến chúng ta khiếp sợ.

Khi cái chết đến gần, nhiều người trong chúng ta nhận thấy mình suy nghĩ về cuộc đời đã qua và cảm thấy xấu hổ, tội lỗi về những gì đã làm hoặc chưa thực hiện. Không chỉ sợ mất đi tất cả mọi thứ đã trở nên quá gắn bó và bám luyến trong cuộc đời này, vào tất cả những mối quan hệ, chúng ta còn sợ bị đánh giá về những hành động đáng hổ thẹn của mình. Cả hai cách nhìn này khiến cho ý tưởng về cái chết còn trở nên khủng khiếp hơn.

Không có việc trở về từ cái chết và cũng không thể nào trốn khỏi nó. Có lẽ, đây là sự kiện duy nhất trong đời chúng ta không thể lựa chọn ngoại trừ việc phải đối mặt. Đơn giản là chúng ta không thể né tránh nó. Thậm chí cố gắng đẩy nhanh quá trình bằng việc tự tử cũng không có kết quả bởi vì, con người tuy có thể chết nhanh hơn [nhờ tự tử], nhưng nỗi sợ hãi thì không có "nút tắt". Chúng ta vẫn phải trải qua nỗi khiếp sợ không thể tưởng tượng được trong suốt tiến trình chết bởi vì không thể tự biến mình thành những vật vô tri giác, như sỏi đá, để bảo đảm rằng ta không cảm giác được gì.

 
~ Dzongsar Jamyang Khyetse Rinpoche

(Trích từ quyển "Sống là Dần Chết"
Mời bạn đọc thêm và tải sách bản pdf tại đây
Sách đã được xuất bản tại Việt Nam với tựa đề "Hành Trình Sinh Tử", Nxb Thái Hà, 2020)

Chánh Niệm: Chiếc Gương của Tâm

Kính lễ Chánh Niệm tự sinh khởi, 
Chánh Niệm như bậc Đế Vương tối thắng! 



 
Ta là Gương Chánh niệm, 
Sáng rõ hiển bày sự Cẩn Trọng và Chánh Niệm. 
Hãy nhìn, hỡi các Kim Cương hữu! 
Nhìn vào ta, Chánh Niệm được hỗ trợ. 

Lúc này, hãy khẩn cầu Tam Bảo, 
Bất khả phân với vị Thầy - Bổn Sư!  

Không phóng tán, hãy nhìn vào bản chất của Tâm! 

Chánh Niệm là gốc rễ Giáo Pháp, 
Chánh Niệm là thực hành chính của Đạo lộ, 
Chánh Niệm làm thành trì vững chắc cho Tâm, 
Chánh Niệm làm trợ lực cho Trí Tuệ của Giác Tánh tự-hay-biết,
Chánh Niệm là thứ hỗ trợ cho Đại Ấn, Đại Toàn Thiện và Trung Quán. 

Thiếu Chánh Niệm, chúng ta bị những trở lực tiêu cực khắc chế. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta bị kiềm tỏa bởi thói biếng lười. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta phạm phải những sai lầm. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta thất bại trong việc hoàn thành những mục tiêu nhắm đến. 

Thất Niệm - giống như một đống phân! 
Thất Niệm - giống như cá giãy trên nền đất!
Thất niệm - giống như một cái xác không hồn!
 
Hãy làm cho Chánh Niệm được vững chắc, này các bạn ta! 

Nương vào những ý định chân thành của những vị Thầy cao quý, 
Nguyện cho chúng ta ngay tức thời trực nhận được Chánh Niệm chân thật của mình! 

Yêu cầu này, là một sự hối thúc để ghi nhớ Chánh Niệm, dành tặng cho những người bạn Đạo nào đã có được Pháp nhãn.
Soạn tác bởi một Tăng sĩ tệ hại mang tên Jamyang Dorje, 
Là kẻ thực sự chỉ giống như một con trâu già rụng răng.

Nguyện mọi sự cát tường! 


~Nyoshul Khen Rinpoche


Adam Pearcey chuyển dịch từ tiếng Tạng sang Anh ngữ năm 2013.
Lạc Hải Âm (Dechen Yangtso) chuyển dịch từ Anh sang Việt Ngữ ngày 01/11/2021.

(Eng Soure: Uncle Thubten Kway's FB)

Mindfulness: The Mirror of the Mind


Homage to naturally arising, king-like mindfulness!

I am the mirror of mindfulness,
Clearly revealing carefulness and mindfulness.
Look, my vajra friends!
Seeing me, mindfulness is supported.

Pray now to the Three Jewels,
Inseparable from the Lama-Guru!

Undistractedly, look into the essence of mind!

Mindfulness is the root of the Dharma,
Mindfulness is the path’s main practice,
Mindfulness is a fortress for the mind,
Mindfulness is an aid to the wisdom of self-knowing rigpa,
Mindfulness is a support for Mahāmudrā, Dzogchen and Madhyamaka.

Lacking mindfulness, we’re overcome by negative forces.
Lacking mindfulness, we’re beset by laziness.
Lacking mindfulness, we commit every wrong.
Lacking mindfulness, we fail to accomplish our aims.

Mindlessness—it’s like a pile of shit!
Mindlessness—it’s like fishing on dry land!
Mindlessness—it’s like a heartless corpse!

Make your mindfulness secure, my friends!

Through the heartfelt intentions of the precious teachers,
May we come now to recognize our own true mindfulness!

This request, a spur to remember mindfulness,
Was offered to friends who possess the eyes of Dharma
By the terrible monk called Jamyang Dorje,
Who is really just a buck-toothed ox.

Sarva mangalam!

~Nyoshul Khen Rinpoche

Translated by Adam Pearcey, 2013

(Eng Soure: Uncle Thubten Kway's FB)

Thứ Năm, 4 tháng 11, 2021

Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền

 

Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền - Đức Phật Nguyên Thủy Samantabhadra


 

Ho! Tất cả mọi thứ – hình tướng và hiện hữu, Luân Hồi và Niết Bàn, mang một nền tảng duy nhất, nhưng có hai Con Đường dẫn đến hai Kết Quả, và hiển bày một cách kỳ diệu thành Tỉnh-Thức hoặc Không-Tỉnh-Thức.

Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh đều đạt thành Phật Quả, viên mãn toàn hảo, an trú nơi cõi Pháp Giới chân như. Nền Tảng của mọi hiện tượng không do tạo tác, là không gian quảng đại vô biên tự sinh khởi, vượt ngoài sức diễn đạt, không mang danh tự Luân Hồi hay Niết Bàn. Chỉ Giác Ngộ được điều này, thì con là một vị Phật; nếu không trực nhận được nó, con là một chúng sinh lang thang trong Luân Hồi.

Ta cầu nguyện tất cả chúng sinh trong Tam Giới có thể giác ngộ được nghĩa lý chân thật của Nền Tảng không thể diễn bày này.

Ta, Phổ Hiền, đã Giác Ngộ chân lý của Nền Tảng này, vượt thoát mọi Nhân Duyên, đó chỉ là Giác Tánh tự-sinh-khởi. Nó không bị nhiễm ô bởi những biểu hiện bên ngoài và ý niệm bên trong, bởi sự khẳng định hay phủ định, và không bị nhơ bẩn bởi màn đêm của Tâm thất Niệm. Như thế, sự hiển bày tự-hiện-hóa này không có những lầm lỗi.

Ta, Phổ Hiền, trú trong sự Tỉnh-Thức nội tại. Dù Tam Giới bị hủy diệt, cũng không có sợ hãi. Không có sự bám luyến vào những Dục Lạc của Năm giác quan. Trong Tánh biết tự-sinh-khởi, giải thoát mọi ý niệm, không có hình tướng nào chắc thật, kể cả Ngũ Độc. 

Trong trạng thái Tỉnh-Thức liên tục sáng rõ, tinh túy là bất nhị, vẫn hiện khởi sự phô diễn của Ngũ Trí. Khi Ngũ Trí chín muồi, Ngũ Bộ Phật Nguyên Thủy hiện lên, và thông qua sự triển khai mở rộng Trí Tuệ của chư vị, 42 vị Phật an bình xuất hiện. Khi sức mạnh của Ngũ Trí phát sinh, 60 Heruka phẫn nộ sẽ hóa hiện. Như vậy, Nền Tảng của sự Tỉnh-Thức không bao giờ nhầm lẫn hay sai lệch.

Ta, Phổ Hiền, là Phật khởi nguyên của tất thảy, và qua lời cầu nguyện này của ta, nguyện cho tất cả chúng sinh lang thang trong Tam Giới Luân Hồi trực nhận được Giác Tánh tự-sinh-khởi, và nguyện cho Tuệ Giác vĩ đại của họ cũng tự nhiên tăng trưởng.

Hàng tỷ hóa thân của ta sẽ liên tục xuất hiện theo vô số cách không thể nghĩ bàn, xuất hiện trong nhiều hình tướng để trợ giúp những chúng sinh cần được rèn luyện. Ngay từ ban đầu, chúng sinh đều bị mê lầm bởi đã không nhận ra được Giác Tánh Nền Tảng.

Như vậy, sống bằng Tâm thất Niệm trước những gì xảy ra chính là Mê Lầm – trạng thái Không-Tỉnh-Giác và là nguyên nhân của sự lạc lối. Từ trạng thái Mê Lầm này kéo đến cơn bất tỉnh đột ngột làm kích khởi nỗi sợ hãi chao động trong tầng ý thức vi tế.

Từ cơn chao động đó, nảy sinh khái niệm phân biệt về “ta” và nhận thức “chúng sinh khác” như là “kẻ đối nghịch”. Dần dần, xu hướng phân biệt này càng mạnh mẽ hơn, và từ đây, vòng Luân Hồi bắt đầu.

Tiếp đến, những cảm xúc của Ngũ Độc phát triển – những hành xử từ các cảm xúc đó chẳng bao giờ kết thúc. Chúng sinh sống mà không có Tỉnh Thức do mất Chánh Niệm, và đây là căn bản cho việc họ lạc đường.

Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh nhận ra được Giác Tánh nội tại! Sự Không-Tỉnh-Giác vốn do Tâm Thất Niệm và Xao Lãng. Để cho Thất Niệm xảy ra nghĩa là đưa vào những ý niệm phân biệt nhị nguyên giữa “ta” và “chúng sinh khác”. Cả hai trường hợp Thất Niệm này là những cơ sở cho sự mê lầm của tất cả chúng sinh.
Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh lang thang trong luân hồi sẽ xóa tan màn sương mù tối của sự Thất Niệm, xóa tan những ý niệm bám chấp nhị nguyên!

Nguyện tất cả chúng sinh trực nhận được sự Tỉnh Thức nội tại của chính mình! Các tư tưởng nhị nguyên tạo nên Nghi Hoặc, do những bám chấp vi tế vào những tư tưởng nhị nguyên này khiến cho khuynh hướng Tâm phân biệt càng trở nên mạnh mẽ và sâu dày hơn. Thực phẩm, của cải, y phục, nhà cửa và bạn bè, Năm đối tượng của các giác quan và gia đình thân yêu - tất cả những thứ này gây ra sự đau khổ bằng cách tạo ra niềm khát khao và dục vọng. Đây là tất cả những mê lầm trần tục; là những hoạt động của sự tham lam và bám chấp bất tận. Khi Quả của sự Tham Luyến chín muồi, chúng sinh sẽ tái sinh làm Quỷ Đói, chịu dày vò bởi sự thèm muốn và dục vọng, khốn khổ của đói và khát.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh nào mang dục vọng và ham muốn do những bám chấp, không chối bỏ ham muốn dục vọng, cũng không thuận theo những tham luyến trước các dục. Hãy để ý thức buông thư trong trạng thái thái tự nhiên của chính nó, sau đó sẽ có thể duy trì được sự Tỉnh-Thức. Nguyện cho chúng sinh đạt được Tuệ Giác sáng suốt toàn hảo!

Khi các đối tượng bên ngoài xuất hiện, ý thức vi tế của sự nỗi sợ sẽ sinh khởi. Từ nỗi sợ hãi này, tập khí sân giận trở nên ngày càng mạnh mẽ. Cuối cùng, thái độ thù địch xuất hiện, gây ra hành vi bạo lực và tàn sát. Khi Quả của niềm Sân Giận này chín muồi, chúng sinh phải chị đau đớn trong địa ngục nấu sôi và thiêu cháy.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh trong Sáu Cõi, khi cơn sân giận mãnh liệt khởi sinh, không chối bỏ hay thuận theo nó. Thay vào đó hãy buông xả trong trạng thái tự nhiên và đạt được Tuệ Giác sáng rõ!

Khi Tâm trở nên đầy ngạo mạn, những tư tưởng hơn thua (kiêu mạn) và nhục mạ kẻ khác sẽ khởi sinh. Khi niềm Kiêu Mạn này ngày càng mạnh mẽ hơn, chúng sinh sẽ nếm trải sự đau khổ của những cuộc cãi vã và lăng mạ. Khi Quả của nghiệp này chín muồi, chúng sinh đó sẽ tái sinh vào các cõi Trời và nếm trải nỗi đau khổ của sự thay đổi và đọa lạc vào những cõi tái sinh thấp hơn.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh có Tâm kiêu mạn tăng trưởng, buông xả được ý thức của họ trong trạng thái tự nhiên và có thể duy trì được trạng thái Tỉnh Giác. Nguyện cho họ đạt được Trí Tuệ của Tánh Bình Đẳng!

Do tăng trưởng thói quen phân biệt nhị nguyên, do tự ca ngợi bản thân và chê bai kẻ khác, Tâm đua tranh, tỵ hiềm  dẫn đến sự bùng khởi chiến tranh, và chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi Trời đố kỵ (Asura), nơi chỉ toàn giết chóc và thương tích. Từ Quả của hành vi sát hại, chúng sinh đó sẽ đọa vào cảnh giới Địa Ngục.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh khi khởi lên những tư tưởng tỵ hiềm và ganh đua, không xem những ý niệm này là kẻ thù. Họ chỉ cần buông xả trong thư thái thì ý thức có thể trụ vào trạng thái tự nhiên. Nguyện chúng sinh đạt được Tuệ Giác của hành động không trở ngại!

Do tán Tâm, bất cẩn và thất niệm, chúng sinh trở nên đờ đẫn, mờ tối và đãng trí. Do thiếu ý thức và lười nhác mà vô minh tăng trưởng, và Quả của sự vô minh này là cuộc lang thang bất lực trong cõi Súc Sanh. 

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh đã rơi vào hố đen của vô minh phát tỏa ánh sáng của Chánh Niệm, và nhờ đó đạt được Tuệ Giác vô niệm.
Tất cả chúng sinh trong Tam Giới thực chất giống hệt chư Phật, bởi đều có cùng một Nền Tảng. Nhưng sự lầm lẫn về Nền Tảng khiến cho chúng sinh lạc lối, rồi hành xử không có mục tiêu. Sáu Nghiệp Hành chỉ là ảo ảnh, tựa một giấc mơ. Ta là vị Phật Nguyên Thủy, ở đây để uốn nắn Sáu loại chúng sinh thông qua tất cả những hóa hiện.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh không chừa sót chứng đạt Giác Ngộ trong trong trạng thái của Pháp Giới chân như.

Ah Ho! Trong tương lai, bất cứ khi nào một hành giả có năng lực mạnh mẽ, trong trạng thái Tỉnh-Giác rạng rỡ và không mê lầm, trì tụng bài cầu nguyện đầy oai lực này, thì tất cả chúng sinh nào nghe thấy sẽ đạt được Giác Ngộ trong vòng ba kiếp sống.

Trong kỳ nhật thực hoặc nguyệt thực, trong khi xảy ra động đất hoặc khi quả địa cầu vang rền, vào các ngày lập chí (hạ chí và đông chí) hoặc thời khắc giao thừa, hành giả nên quán tưởng Đức Phổ Hiền và  tụng đọc bài nguyện lớn tiếng để tất cả có thể nghe thấy, thì chúng sinh trong ba cõi sẽ dần được giải thoát khỏi khổ đau. Thông qua lời cầu nguyện của hành giả, cuối cùng, họ sẽ đạt được Giác Ngộ.

Bài nguyện này được trích trong Chương 9 của Những Giáo Huấn về Pháp Đại Toàn Thiện từ Gongpa Zangthal, Những Bảo Tạng Phía Bắc được phát lộ bởi vị Khai Mật Tạng Rigdzin Gödem. Vào ngày Trăng Rằm tháng thứ bảy năm Kim Mùi (1991) theo Tạng lịch, bài cầu nguyện này đã được chuyển sang Anh Ngữ bởi Bậc Đáng Kính Bhaka Tulku Rinpoche tại Berkeley, Californica, với sự trợ giúp của Lunpo Urgyan Thondup. <Link pdf http://www.rigdzindharma.org/uploads/6/9/5/6/6956478/prayer_of_kuntuzangpo.pdf >
 
Lạc Hải Âm (Dechen Yangtso) chuyển Việt Ngữ vào ngày Trăng Non kết thúc tháng Saga Dawa năm Kim Tí (2020) theo Tạng Lịch, trong khoảng thời gian xảy ra Nhật Thực Vành Khuyên tại một số nơi trên địa cầu trong đó có Việt Nam, Nepal, Ấn Độ... Hiệu đính lần cuối ngày 01/11/21. Nguyện mọi sự cát tường!
 
[Mời bạn tải bản pdf tại đây]

Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

Trí Văn và sự Giác Ngộ

 


Một điểm quan trọng cần ghi nhớ là bất cứ thông tin nào chúng ta gom nhặt được, chúng ta cũng đều "lọc lựa", vậy nên phần còn lại ta có được chỉ là một dạng hiểu biết rất riêng biệt và độc nhất với bản thân mỗi người. Sự hiểu biết này không phải là giác ngộ. Thậm chí, nó chẳng còn được gọi là một kinh nghiệm. Nó giống như một mảnh vá, và cuối cùng sẽ bị rơi rớt. Là điều tốt khi được che bọc bởi những mảnh vá của sự hiểu biết bởi vì sớm hay muộn thì những mảnh vá cũng sẽ rơi rụng để cho kinh nghiệm có thể được hiển lộ.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhận biết ra rằng việc sống với những mảnh vá này sẽ kéo dài thời gian chúng ta lưu lại trên con đường tiến tới Giác Ngộ. Thật sự thì chúng ta còn lại bao nhiêu thời gian trong kiếp sống này? 20 năm? 30 năm, nếu chúng ta may mắn? Và nếu thật sự nhận thức được rằng những gì chúng ta đã học hiểu chẳng gì hơn là những mảnh vá chắp nối làm nên cuộc Luân Hồi của riêng mình, thì liệu bao nhiêu người trong chúng ta sẵn sàng bỏ ra 10 năm nữa để tiếp tục tin tưởng vào thứ thực tại đó? Thế nên, chúng ta phải chuẩn bị cho sự cởi bỏ những mảnh vá. Nhưng hãy ý thức rằng một khi lớp vỏ trong lộ ra, chúng có thể bị nhầm lẫn là phần thịt trái cây, đây là lý do vì sao chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng chấp nhận rằng nó chỉ là một lớp vỏ khác mà thôi. Chủ đề này không phải là một nguyên lý mà chúng ta chỉ áp dụng trong việc lắng nghe, tư duy, hay đọc hiểu; mà nó còn trở nên thích đáng hơn khi chúng ta thiền tập. Đây cũng chính là ý nghĩa một câu ngạn ngữ Tây Tạng nói rằng: "Kinh nghiệm thì giống như màn sương buổi sớm. Chúng sẽ chóng tan."


~ Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche

(Eng Soure: Vajra Wisdom's IG)

Móc Chánh Niệm

Một người bị mắc dính vào cái móc thì không có quyền lựa chọn mà luôn phải đi đến bất cứ nơi nào anh ta bị dẫn kéo. Tương tự như thế, nếu chúng ta bắt giữ được Tâm - thứ luôn có nguy cơ bị điên đảo trước những đối tượng của Sáu giác quan - với cái móc của Chánh Niệm, với sự cảnh giác và thận trọng, sẽ đem lại lợi ích vô cùng to lớn. Chúng ta nên sử dụng người gác cổng này để liên tục kiểm tra xem có bao nhiêu những niệm tưởng tích cực, tiêu cực và những hành động được chúng ta tạo tác trong ngày. Một khi chúng ta đã có thể kiểm soát được Tâm nhờ Chánh Niệm, mọi thứ xuất hiện nơi Luân Hồi và Niết Bàn trở thành phương tiện trợ giúp cho sự thực hành và đem lại lợi ích trong việc xác chứng ý nghĩa của những giáo lý [đã được lãnh thọ]. Tất cả mọi hình tướng được hiểu như là hiện hữu của Pháp Thân. Chúng ta nhận thức mọi thứ trong sự "thanh tịnh tự nhiên" của chúng, và không có thứ gì chúng ta có thể cho là "bất tịnh" được.

~ Dilgo Khyentse Rinpoche (Trích từ Quyển "Chúc thư của Zurchungpa")

(Eng Soure: Heart of Buddhism - Kindness's IG)
 

 

Hiểu Đúng về Thiền

Thiền không phải luôn luôn gắn liền với ý nghĩa là ngồi yên ở đâu đó với cặp mắt lim dim. Đó chỉ là một cách hành Thiền. Nó có nghĩa là con đang làm việc với những kinh nghiệm về Không tánh. Nếu thông qua kiểu kinh nghiệm này con phát triển được Trí Tư (khả năng tư duy, suy xét), thì phần thực hành của con may ra mới "thật sự" trở thành Chánh Tư Duy - còn nếu không phải vậy, thì chỉ là con đang duy trì trong trạng thái Rỗng Không hay còn gọi là Shunyata.

...Tư Duy chân chánh và thực thụ nghĩa là sống trong Thực Tại (hoàn cảnh thực tế), một cảnh thực tại không chỉ chứa đựng Không tánh, mà còn gồm cả điều chúng ta gọi là "sự biến chuyển". Vậy nên, nếu một người không có khả năng kết hợp hoặc sống trong sự biến chuyển đó, thì người này còn cách khá xa với thực tại.
Nếu như con thật sự hiểu biết về những giáo huấn của Mật Điển, con sẽ biết cách làm thế nào để "ở trong động" và cũng cùng lúc đó, con duy trì trạng thái Tư Duy. Thế thì, nếu như con nhảy múa suốt ngày, hay tĩnh toạ bất động cả ngày, sẽ chẳng có gì là khác biệt cả. Có lẽ, hành giả nào có thể kết hợp [tu tập] trong động thì có thể sẽ chứng đạt Giác Ngộ nhanh hơn, đây là lý do vì sao mà hành động được áp dụng nhiều hơn trong những giáo huấn Mật Điển. Như con có thể thấy, có sự chuyển động ngay cả trong luồng năng lượng của chính con, vậy nên trong Mật Thừa, phương tiện chuyển hóa đòi hỏi sự kết hợp mọi thứ vào trong nguyên lý trên.
Ta không nói rằng việc kết hợp hay thâm nhập được Trí Tư [đến mức độ như thế] là dễ dàng, nó cần thời gian dài và chẳng dễ dàng một chút nào cả.


~Namkhai Norbu Rinpoche(English Soure: Vajra Wisdom's IG)






Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

Tâm thức kỷ luật

 


"Không có dấu hiệu thành tựu nào tốt hơn một Tâm thức kỷ luật. Đây là chiến thắng thật sự cho những chiến binh chân thật, những chiến binh không cần binh khí."

~ Chatral Rinpoche
(Nguồn: Nyingma Masters FB)

"There is no better sign of accomplishment than a disciplined mind. This is true victory for the real warrior who carries no weapons."

~ Chatral Rinpoche
(Source: Nyingma Masters's FB

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...