Hiển thị các bài đăng có nhãn 6 Xúc Xứ - 12 Xứ - 18 Giới. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn 6 Xúc Xứ - 12 Xứ - 18 Giới. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 11 tháng 1, 2022

Cốt Lõi của việc hành Thiền



Khi niệm tưởng chuyển động, chỉ cần nhận biết "người đang suy tưởng" thì những niệm tưởng đó sẽ tan biến. Dù những suy nghĩ có liên hệ đến vấn đề gì đi nữa cũng không quan trọng, bởi quá trình suy nghĩ và người đang suy tưởng là rỗng không. Bản thân một ý niệm không do bất kỳ thứ vật chất cụ thể nào tạo tác nên, nó chỉ đơn giản là những luồng chuyển động của những ý niệm rỗng không. Bằng việc nhận biết Không tánh trong một niệm khởi, nó lập tức biến mất giống như bong bóng nước vỡ tan. Đó là cách làm thế nào để lập tức đối phó với bất kỳ ý niệm cụ thể nào đang khởi sinh. Một khi bạn biết cách làm cho niệm tưởng hiện tại tan biến, bất kỳ ý nghĩ nào tiếp tục khởi lên cũng có thể được xử lý chính xác theo cùng cách thức như vậy, nó cũng chỉ là một ý niệm khởi sinh ở khoảnh khắc thực tại. Còn nếu như chúng ta tham gia vào tiến trình suy nghĩ, suy tưởng về những gì đang nghĩ đến, và cứ tiếp tục tiến trình đó thì nó sẽ không có điểm dừng.

Chính do tiến trình suy nghĩ đã thúc đẩy hoặc bức bách chúng ta phải tiếp tục hiện hữu thêm trong Luân Hồi. Khi chúng ta bị dính mắc vào trong những ý nghĩ của riêng mình, cuộc Luân Hồi sẽ không ngừng lại. Mặt khác, bất cứ ý niệm nào cũng đều rỗng Không, nó chẳng hàm chứa thứ vật chất rắn chắc nào trong nó. Điều này rất dễ thấy, bởi vì ngay khoảnh khắc bạn hay biết về tánh Không của Tâm, suy nghĩ biến mất ngay lập tức. Các ý nghĩ tan biến vào trong tính chất rỗng không, vào trong bản chất nền tảng của bạn, chính là Không tánh. Không sót lại bất kỳ một vết tích nào. Đó là cách duy nhất để giải quyết vấn đề. Khi bạn nhận biết được bản chất của mình, những ý niệm bị "hành quyết" ngay tại chỗ: nó hoàn toàn bị xóa sạch.

Luân Hồi được tạo nên khi chúng ta để Tâm hướng ra bên ngoài qua các cánh cửa của năm giác quan. Chúng ta tập trung vào một đối tượng thông qua mắt, hoặc tai, hoặc mũi, lưỡi, thân và rồi tạo tác nên những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng này. Có thể trông có vẻ như là có các loại ý thức khác nhau thông qua các cửa giác quan khác nhau, nhưng thực chất chỉ có một Tâm luân phiên chộp bắt lấy các đối tượng qua các cửa giác quan. Một ví dụ truyền thống minh họa cho việc này là hình ảnh của một con khỉ bị nhốt trong căn phòng trống có năm cửa sổ, nó nhảy nhót xung quanh không ngừng nghỉ và liên tục nhìn ra ngoài qua khung cửa này đến khung cửa khác. Một người đứng quan sát bên ngoài có thể nghĩ rằng có rất nhiều khỉ trong căn phòng đó, nhưng thực tế thì chỉ có một con. Nếu bạn có thể bắt và trói con khỉ đó lại, thì sẽ chẳng có con khỉ nào khác chạy nhảy vòng quanh nữa. Nói cách khác, phương thức để bắt được con khỉ chính là làm cho những suy nghĩ tan biến đi.

Một ví dụ khác là hình ảnh một đám cháy bùng lên ở giữa nhà và khói tuôn ra ngoài qua tất cả các khe hở của ngôi nhà. Nếu bạn tạt một xô nước vào giữa đám cháy, ngọn lửa sẽ lụi tắt, và khói cũng đồng thời biến mất ở mọi phương hướng. 'Khói' là một ví dụ thể hiện cho tính chất rỗng không; cũng giống như những suy nghĩ chỉ là sự hiển bày của Pháp Thân (thân tinh túy). Chính nó không phải Pháp Thân, nhưng nó là một sự hiện hóa từ bản chất nền tảng. Giống như bản chất nền tảng của chúng ta, sự hóa hiện này cũng không hàm chứa bất cứ thứ vật chất rắn chắc nào.

Việc thuyết giảng trọng yếu không bao giờ chỉ để nhận biết được Tâm phân biệt. Bởi điều đó là những gì mà tất cả chúng sinh đang làm trong mọi lúc - để ý vào những cảm xúc và suy nghĩ rồi hành xử theo chúng. Những chỉ dẫn cho việc hành Thiền không phải là để kéo dài mãi mãi công việc này, nó không chỉ để thấy ra được Tâm phân biệt, những niệm tưởng phân biệt. Mà hơn thế, những chỉ dẫn là để nhận ra được bản chất của Tâm thức. Đây là điểm khác biệt vô cùng quan trọng. Việc một người bị dính mắc vào trong suy nghĩ và hành xử dựa trên những cảm xúc chính là nguyên nhân tạo ra vòng Luân Hồi bất tận. Đây là kết quả của việc bị dính mắc vào trong những hiện tượng huyễn hóa mà không hiểu biết được bản chất của chúng là gì.


~ Tulku Urgyen Rinpoche


When a thought moves, simply recognise the thinker. The thinking then dissolves. No matter what the thought is about, the thinking and the thinker are empty. A thought in itself is not made of any concrete substance; it is simply an empty thought movement. By recognising the empty essence in a thought, it vanishes like a bubble in water. That is how to deal with any particular present thought at hand. Once you know how to let the present thought dissolve, any subsequent thought can be dealt with in exactly the same way, as simply another present thought. But if we get involved in the thought, thinking of what is being thought of, and continue it, then there is no end.

It is our thinking that propels us or forces us into further samsaric existence. As long as we get caught up in our own thinking, samsara doesn’t stop. On the other hand, any thought is an empty thought, in that it has no concrete substance to it whatsoever. It is very easy to no­tice this, because the moment you recognise mind essence, the thought dissolves right there. The thought vanishes into your empty essence, into your basic nature which is emptiness. There is no remnant whatso­ever. That is the only way to solve the problem. When recognising your essence, the thought is executed on the spot; it is totally obliterated.

Samsara is created when we let our mind extrovert through the five senses. We focus on an object through our eyes, or through the ears, or the nose, and make thoughts and emotions about this object. It may seem like we have different consciousnesses through the different senses, but actually it is one mind that alternately grabs at objects through the various senses. The traditional example for this is of a monkey in an empty room with five windows, restlessly jumping around and looking out through one window after the other. An out­side observer might think there are a lot of monkeys in that room, but in fact there is only one. If you catch hold of that monkey and tie it up, there is no jumping around any more. In other words, the way to cap­ture the monkey is by dissolving the thought.

Another example is of a fireplace in the middle of the house, with smoke coming out through all the openings. If you throw a bucket of water in the middle, the flames are extinguished, and the smoke si­multaneously disappears in all directions. ‘Smoke’ is an example for the expression of the essence; just as thoughts are the expression of dharmakaya [essence body]. They are not dharmakaya itself, but they are a manifestation of our basic nature. Just like our basic nature, this manifestation has no concrete substance to it.

The essential teaching is never to just recognise dualistic mind. That is what all sentient beings are doing all the time—noticing their feel­ings and thoughts, and then acting upon them. The meditation in­struction is not to perpetuate that; it is more than simply recognising dualistic mind, dualistic thinking. Rather, it is to recognise the essence of this mind. That is the crucial difference. Being caught up in one’s thoughts and acting upon these feelings is the cause of endless samsara. This is being caught up in the expression and not knowing the essence itself.


~ Tulku Urgyen Rinpoche

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Buông Bỏ Vọng Tưởng


 
Tĩnh tọa với việc tạo ra thêm những ý nghĩ phán xét khi nhận diện được những khía cạnh cụ thể nào đó của Tâm thì không phải là con đang hành Thiền. Đó là những hoạt động của trí năng. Thực tế, chẳng có bất kỳ thứ gì để Thiền; và cũng chẳng có quá trình Thiền nào cả. Nhưng con đừng dung thứ cho những khoảnh khắc phóng Tâm. Việc lang thang khỏi trạng thái Tâm tự-giác-biết mới chính là vọng tưởng, vì thế đừng xao lãng! Bất kỳ ý niệm nào khởi lên, cứ để chúng hiện khởi, nhưng đừng theo đuổi chúng và cũng đừng ngăn chận chúng.
Vậy điều gì cần được thực hiện? Bất kỳ thông tin nào của đối tượng được tiếp nhận từ các cửa giác quan hiện khởi, chúng chỉ là sự xuất hiện của các hình thái, không phải để bám chấp vào chúng mà thay vào đó, con hãy an trú vào kinh nghiệm tươi mới nguyên sơ, giống như một đứa trẻ đi loanh quanh để nhìn ngắm một ngôi đền kỳ diệu mà không dừng trú lại bất kỳ chỗ nào. Tất cả những khoảnh khắc thuộc về hiện tượng của Tâm ở ngay đúng vị trí của chúng, hình thái của chúng không bị bóp méo, màu sắc của chúng không bị thay đổi, vẻ đẹp của chúng được để nguyên vẹn. Hơn nữa, nhờ việc giữ cho những thông tin ghi dấu nơi các cửa giác quan được tinh nguyên, không bị pha trộn với sự Tham muốn và những niệm tưởng Bám Chấp, nên tất cả những hình thái ảo huyễn do Tâm hiện khởi đều là trạng thái giác biết rõ ràng và vô phân biệt của tánh Không sáng tỏ.

Một số hành giả với căn cơ thấp có thể cảm thấy bối rối trước những giáo lý "thâm sâu và quảng đại", và nếu như Thầy có thể cô đọng nội dung ấy thành một lời khai thị có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho họ, Thầy sẽ nói rằng: Khoảng trống của sự dừng nghỉ giữa một niệm và sự khởi sinh của niệm kế tiếp chính là khoảnh khắc bất biến của Ý Thức hiện tiền (tại-đây-và-bây-giờ), chẳng phải đó là sự giác biết trọn vẹn và rõ ràng sao? Ho! Đó chắc chắn chính là thực tại thuần khiết! Và vì con không thể an trú trong không gian của sự hay biết như thị thuần khiết, nên một niệm sinh khởi là chuyện khó tránh khỏi, đúng không? Niệm tưởng đó là sự biểu hiển sáng tạo của thực tại thuần khiết! Nếu con thất bại trong việc nhận biết ý niệm ngay khi nó sinh khởi, nó sẽ sản sinh ra thêm những suy nghĩ phán xét lang thang bất định, có thể gọi tên là "chuỗi ảo vọng" và đây chính là căn nguyên của Luân Hồi. Khi con nhận biết được ý niệm lúc nó mới bắt đầu khởi và chỉ để nguyên như vậy mà không chạy theo nó, thì bất kỳ ý niệm nào sinh khởi cũng đều lập tức được giải phóng vào trong thực tại thuần khiết của Pháp Thân.


~ Dudjom Rinpoche

Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

Trí Văn và sự Giác Ngộ

 


Một điểm quan trọng cần ghi nhớ là bất cứ thông tin nào chúng ta gom nhặt được, chúng ta cũng đều "lọc lựa", vậy nên phần còn lại ta có được chỉ là một dạng hiểu biết rất riêng biệt và độc nhất với bản thân mỗi người. Sự hiểu biết này không phải là giác ngộ. Thậm chí, nó chẳng còn được gọi là một kinh nghiệm. Nó giống như một mảnh vá, và cuối cùng sẽ bị rơi rớt. Là điều tốt khi được che bọc bởi những mảnh vá của sự hiểu biết bởi vì sớm hay muộn thì những mảnh vá cũng sẽ rơi rụng để cho kinh nghiệm có thể được hiển lộ.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhận biết ra rằng việc sống với những mảnh vá này sẽ kéo dài thời gian chúng ta lưu lại trên con đường tiến tới Giác Ngộ. Thật sự thì chúng ta còn lại bao nhiêu thời gian trong kiếp sống này? 20 năm? 30 năm, nếu chúng ta may mắn? Và nếu thật sự nhận thức được rằng những gì chúng ta đã học hiểu chẳng gì hơn là những mảnh vá chắp nối làm nên cuộc Luân Hồi của riêng mình, thì liệu bao nhiêu người trong chúng ta sẵn sàng bỏ ra 10 năm nữa để tiếp tục tin tưởng vào thứ thực tại đó? Thế nên, chúng ta phải chuẩn bị cho sự cởi bỏ những mảnh vá. Nhưng hãy ý thức rằng một khi lớp vỏ trong lộ ra, chúng có thể bị nhầm lẫn là phần thịt trái cây, đây là lý do vì sao chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng chấp nhận rằng nó chỉ là một lớp vỏ khác mà thôi. Chủ đề này không phải là một nguyên lý mà chúng ta chỉ áp dụng trong việc lắng nghe, tư duy, hay đọc hiểu; mà nó còn trở nên thích đáng hơn khi chúng ta thiền tập. Đây cũng chính là ý nghĩa một câu ngạn ngữ Tây Tạng nói rằng: "Kinh nghiệm thì giống như màn sương buổi sớm. Chúng sẽ chóng tan."


~ Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche

(Eng Soure: Vajra Wisdom's IG)

Móc Chánh Niệm

Một người bị mắc dính vào cái móc thì không có quyền lựa chọn mà luôn phải đi đến bất cứ nơi nào anh ta bị dẫn kéo. Tương tự như thế, nếu chúng ta bắt giữ được Tâm - thứ luôn có nguy cơ bị điên đảo trước những đối tượng của Sáu giác quan - với cái móc của Chánh Niệm, với sự cảnh giác và thận trọng, sẽ đem lại lợi ích vô cùng to lớn. Chúng ta nên sử dụng người gác cổng này để liên tục kiểm tra xem có bao nhiêu những niệm tưởng tích cực, tiêu cực và những hành động được chúng ta tạo tác trong ngày. Một khi chúng ta đã có thể kiểm soát được Tâm nhờ Chánh Niệm, mọi thứ xuất hiện nơi Luân Hồi và Niết Bàn trở thành phương tiện trợ giúp cho sự thực hành và đem lại lợi ích trong việc xác chứng ý nghĩa của những giáo lý [đã được lãnh thọ]. Tất cả mọi hình tướng được hiểu như là hiện hữu của Pháp Thân. Chúng ta nhận thức mọi thứ trong sự "thanh tịnh tự nhiên" của chúng, và không có thứ gì chúng ta có thể cho là "bất tịnh" được.

~ Dilgo Khyentse Rinpoche (Trích từ Quyển "Chúc thư của Zurchungpa")

(Eng Soure: Heart of Buddhism - Kindness's IG)
 

 

Hiểu Đúng về Thiền

Thiền không phải luôn luôn gắn liền với ý nghĩa là ngồi yên ở đâu đó với cặp mắt lim dim. Đó chỉ là một cách hành Thiền. Nó có nghĩa là con đang làm việc với những kinh nghiệm về Không tánh. Nếu thông qua kiểu kinh nghiệm này con phát triển được Trí Tư (khả năng tư duy, suy xét), thì phần thực hành của con may ra mới "thật sự" trở thành Chánh Tư Duy - còn nếu không phải vậy, thì chỉ là con đang duy trì trong trạng thái Rỗng Không hay còn gọi là Shunyata.

...Tư Duy chân chánh và thực thụ nghĩa là sống trong Thực Tại (hoàn cảnh thực tế), một cảnh thực tại không chỉ chứa đựng Không tánh, mà còn gồm cả điều chúng ta gọi là "sự biến chuyển". Vậy nên, nếu một người không có khả năng kết hợp hoặc sống trong sự biến chuyển đó, thì người này còn cách khá xa với thực tại.
Nếu như con thật sự hiểu biết về những giáo huấn của Mật Điển, con sẽ biết cách làm thế nào để "ở trong động" và cũng cùng lúc đó, con duy trì trạng thái Tư Duy. Thế thì, nếu như con nhảy múa suốt ngày, hay tĩnh toạ bất động cả ngày, sẽ chẳng có gì là khác biệt cả. Có lẽ, hành giả nào có thể kết hợp [tu tập] trong động thì có thể sẽ chứng đạt Giác Ngộ nhanh hơn, đây là lý do vì sao mà hành động được áp dụng nhiều hơn trong những giáo huấn Mật Điển. Như con có thể thấy, có sự chuyển động ngay cả trong luồng năng lượng của chính con, vậy nên trong Mật Thừa, phương tiện chuyển hóa đòi hỏi sự kết hợp mọi thứ vào trong nguyên lý trên.
Ta không nói rằng việc kết hợp hay thâm nhập được Trí Tư [đến mức độ như thế] là dễ dàng, nó cần thời gian dài và chẳng dễ dàng một chút nào cả.


~Namkhai Norbu Rinpoche(English Soure: Vajra Wisdom's IG)






Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Tu Tập Nội Bồ Đề Tâm

B.TU TẬP NỘI BỒ ĐỀ TÂM (BỒ ĐỀ TÂM BÊN TRONG)

 

Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Hành giả nên luyện tập thế nào khi phát khởi Bồ Đề Tâm theo con đường bên trong?

Đạo Sư đáp: Theo đó, có mười hai điểm tu tập.

1. CỐT TỦY

Cốt tủy là sự khởi phát ý định giúp đỡ những chúng sinh không nhận biết được rằng: Bản tánh bẩm sinh, thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu), là không do tạo tác.

2. ĐỊNH NGHĨA

Không phụ thuộc vào những hành động “bên ngoài” của Thân hay Khẩu, nó được gọi là “nội” Bồ Đề Tâm vì chỉ được triển khai riêng bởi Tâm con.

3. SỰ PHÂN CHIA

Được phân thành hai: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Nguyện Ước là ước muốn những chúng sanh nào chưa giác ngộ được bản tánh này có thể nhận ra nó. Chỉ ngồi yên và lẩm nhẩm điều này thì chưa đủ; Con phải nỗ lực trong mọi điều kiện để giúp cho tất cả chúng sanh nhận ra nó.

Tsogyal, chừng nào con chưa (tự) giải thoát khỏi sự bám chấp nhị nguyên thì việc Hành Dụng sẽ còn khá khó khăn.

4. NHỮNG TỐ CHẤT CỦA HÀNH GIẢ

Bao hàm những phần giảng giải trước, đặc điểm của hành giả dấn thân vào con đường tu tập này là chỉ dùng những khái niệm tạo tác ở mức độ tối thiểu.

Tsogyal, hãy để cho Tâm con nghỉ ngơi!

5. ĐỐI TƯỢNG ĐỂ THỌ NHẬN

Con cần lãnh thọ từ một Đạo Sư đã chứng ngộ bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã) thông qua sự tu tập Ba Trí (Văn, Tư, Tu), và nhờ đó đã thoát khỏi Tám Mối Bận Tâm Thế Gian.

Tsogyal, một Đạo Sư là thiết yếu để con bước vào cánh cổng của giáo lý Đại Thừa.

6. NGHI LỄ THỌ NHẬN

Hãy tự giải thoát mình khỏi Ba Lớp Ý Niệm (ba phạm vi: đối tượng, chủ thể, hành vi), từ bỏ sự bận tâm đến tất cả các hoạt động thế gian, và như thế, con hãy thỉnh cầu để nhận lấy những hướng dẫn khẩu truyền chân thật.

7. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP

Con sẽ nâng tầm vượt xa trên Tiểu Thừa và những con đường sai lạc. Từ đó, việc thực hành sẽ phát huy hiệu lực giúp con từ bỏ mọi tư duy ích kỷ và chấp thủ nhị nguyên, để rồi con sẽ chứng ngộ bản tánh Vô Ngã.

8. NGUYÊN DO TU TẬP

Nguyên do cần tu tập phát khởi Bồ Đề Tâm theo cách thức từ bên trong là đưa tất cả chúng sanh vào con đường chân thật, đó là bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã).

9. NHỮNG LỖI LẦM KHI KHÔNG TU TẬP

Khuyết điểm khi không tu tập là con sẽ đi lạc khỏi bản tánh Vô Ngã.

Những người bình phàm với Tâm thức chưa có sự chuyển đổi nhờ (cơ sở lý luận của) một trường phái triết học Phật Giáo nào đó, và với đối tượng không liên quan đến Phật Giáo-là những người đã thâm nhập vào một trường phái triết học sai lạc, thì "bản ngã" của họ được xem như là "một con người" kiểm soát và kinh nghiệm Ngũ Uẩn, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới. Hơn nữa, khi cho rằng "bản ngã" này là trường cửu, là vững chắc, họ chấp chặt vào nó, từ đó tạo lập khái niệm "bạn" và "thù", "ta" và "người khác".

Tsogyal, con phải nhổ lên cây cọc của sự chấp thủ.

Mối nguy hiểm của việc khái niệm hóa một "cái Tôi cá nhân" là khi hiểu lầm có một bản ngã và một cái-Tôi-có-thực, thì những đối tượng sẽ xuất hiện như là “thứ gì khác” [biệt lập với cái-Tôi-cá-nhân]. Vì dính mắc vào tư tưởng phân biệt như vậy, con sẽ xem những gì lợi ích cho “cái Tôi” là Bạn, và những gì gây tổn hại cho “cái Tôi” là Thù. Từ đó, những kinh nghiệm của ái luyến và ghét bỏ sẽ khiến con phạm vào nhiều loại hành vi bất thiện. Do những hành động này, con sẽ lang thang trong ba cõi thấp và khắp chốn Luân Hồi.

Tsogyal, nếu không trục xuất Tâm thức độc hại này, con sẽ không tìm được hạnh phúc.

Đối tượng hành giả nào bác bỏ [sự thực có] của "bản ngã"? Nói chung, nó bị bác bỏ bởi tất cả Phật tử. Nói riêng, chư Thanh Văn Giác đặc biệt phá trừ chấp ngã. Dĩ nhiên, những hành giả đã nhập môn Đại Thừa cũng phá bỏ sự chấp thủ vào một cái-Tôi-cá-thể. 

Có lời tuyên bố cho rằng chư Thanh Văn Giác thì chứng ngộ một phần bản chất của hiện tượng và chư vị Độc Giác cũng không chứng ngộ điều đó hoàn toàn. Nghĩa là hàng Thanh Văn khẳng định nhầm lẫn về sự hiện hữu của các yếu tố vật chất (tức chấp thủ Sắc Pháp thực hữu) thay vì cần phải liễu tri rằng bản tánh của mọi hiện tượng (kể cả vật chất và tinh thần - cả Sắc Pháp và Danh Pháp) thảy đều Vô Ngã, còn chư Độc Giác Phật thì lại dính mắc vào sự an trú trong trạng thái tinh túy rỗng lặng của Tâm thay vì thấu suốt thực nghĩa (để lìa bỏ cả trạng thái đó).

Tsogyal, chừng nào con chưa thoát khỏi những tín điều thuộc những trường phái triết học thấp,  con sẽ không lãnh hội được thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu).

Sự nguy hiểm của việc tạo lập nên khái niệm bản thể của hiện tượng là: một khi con đã quyết đoán và chấp chặt vào điều này, con sẽ tạo ra những phiền não. Chính chúng là Nhân dẫn con lang thang trong luân hồi. Cho dù nỗ lực trong bao nhiêu kỳ kiếp [nhưng nếu không ý thức được điều này] thì mọi cố gắng [giải thoát] của con là vô nghĩa. 

Đối tượng hành giả nào bác bỏ bản thể của hiện tượng? Nói chung, tất cả hành giả Đại Thừa đều bác bỏ nó. Nói riêng, sẽ là một tín hiệu xấu nếu như chúng ta đã bước vào cánh cổng Chân Ngôn Bí Mật mà còn chấp thủ thiên kiến, theo đó, những hành giả thuộc Trung Đạo cũng bác bỏ nó.

10. NHỮNG ĐIỂM CẦN TUÂN THỦ.

Con nên tu tập trong nghĩa lý Vô Ngã, điều này có hai loại: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Ba điểm trọng yếu của Nguyện (Ước) phải được dõi sát như sau.

1. Không ngừng thiết lập Nguyện (Ước) với suy nghĩ: Mong rằng tất cả chúng sanh luôn nhận ra lý tánh Vô Ngã.

2. Tu tập ngày ba thời, đêm ba thời trong sự tùy hỷ với người khác là những hành giả đang thiền định về ý nghĩa của Vô Ngã.

3. Luôn tự rèn luyện mình một cách tinh cần [trong nỗ lực] không để bản thân lạc khỏi ý nghĩa của Vô Ngã.

Thứ hai, Hành (Dụng) cần phải dõi sát trong hai khía cạnh thuộc bên trong và bên ngoài.

💎 Bốn sự tu tập bên ngoài là:

1. Không lìa xa Đạo Sư hay người bạn tâm linh đã giảng dạy con ý nghĩa của Vô Ngã cho đến khi con chứng ngộ nó.

2. Buông bỏ thiên kiến liên quan đến nơi chốn cư trú, đất nước hay vùng miền, địa vị chức tước, thù và bạn.

3. Học hỏi, suy tư và thiền định về giáo lý minh giải (giải thích và chứng minh) về Vô Ngã và Không tánh.

4. Không chấp vào tự ngã [và nghĩ rằng có một "cái Tôi"] đang tồn tại vì có danh tính, gia đình, hay thân thể [chắc thật].

💎 Bốn sự tu tập bên trong là:

1. Chớ hiểu rằng những tên gọi [được xã hội gán đặt và sử dụng] là những sự vật thực sự tồn tại, vì mọi nhãn hiệu và tên gọi của sự vật bên ngoài thì không hiện hữu trong Tâm con.

2. Hãy nhận thức rằng mọi thứ tạo lập nên thế giới cùng tất cả chúng sinh trong đó đều vô tự tánh (không có bản thể thực sự), dù có xuất hiện thì cũng chỉ như những giấc mộng và ảo huyễn.

3. Ngày ba thời, đêm ba thời, con hãy tìm cho ra sự bám chấp vào các đối tượng khác nhau của Tâm, dù thực chất chẳng có thứ gì thật sự tồn tại.

4. Giữ mình không lạc khỏi thực nghĩa - vốn không có bất kỳ tên gọi (khái niệm) và những cực đoan nào. Dẫu cho có tìm kiếm Tâm mình, thì nó cũng chẳng thể được tìm thấy như là bất cứ thứ gì.

Đó là những điều tối quan trọng để con tự tinh tấn rèn luyện theo con đường này. Nhờ thực hành theo con đường này, con sẽ trừ diệt được những tâm thức độc hại và dứt bỏ được Luân Hồi.

11. RANH GIỚI GIỮA VIỆC ĐƯỢC VÀ MẤT GIỚI NGUYỆN

Khoảnh khắc lãnh thọ Nội Giới Bồ Đề Tâm (Bồ Đề Tâm bên trong) là khi con nhận được những hướng dẫn khẩu truyền từ Đạo Sư của con.

Lúc mất nguyện là khi con chạy theo những bám chấp nhị nguyên thông thường mà không ý thức về việc bản thể không [thực sự] tồn tại. Ngay lúc bị mất [và nhận ra], hãy áp dụng phương pháp đối trị thật dứt khoát!

12. PHƯƠNG PHÁP PHỤC HỒI GIỚI NGUYỆN HƯ TỔN

Gìn giữ sự tu tập không sao lãng những nghĩa lý vừa giải thích trên, con sẽ tự động tháo cởi đượt nút thắt (sự trói buộc) của [tư tưởng] chấp thủ nhị nguyên.

~ Guru Padmasambhava 

(Trích dịch từ Quyển Giáo Huấn Chư Dakini, NXB Rangjung Yeshe, 1999)

[Mời bạn xem thêm nội dung và tải bản pdf tại đây]


 

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...