Khi không còn dự vào sự ganh đua giữa các cá nhân, mối quan hệ của con với người khác được thiết lập chẳng cần dụng công.
Nơi lưu trữ phần chuyển dịch những lời Pháp nhũ và nội dung người dịch hướng Tâm về!
Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021
Trạng Thái Không Cần Dụng Công (*)
Khi không còn dự vào sự ganh đua giữa các cá nhân, mối quan hệ của con với người khác được thiết lập chẳng cần dụng công.
Buông Bỏ Vọng Tưởng
Vậy điều gì cần được thực hiện? Bất kỳ thông tin nào của đối tượng được tiếp nhận từ các cửa giác quan hiện khởi, chúng chỉ là sự xuất hiện của các hình thái, không phải để bám chấp vào chúng mà thay vào đó, con hãy an trú vào kinh nghiệm tươi mới nguyên sơ, giống như một đứa trẻ đi loanh quanh để nhìn ngắm một ngôi đền kỳ diệu mà không dừng trú lại bất kỳ chỗ nào. Tất cả những khoảnh khắc thuộc về hiện tượng của Tâm ở ngay đúng vị trí của chúng, hình thái của chúng không bị bóp méo, màu sắc của chúng không bị thay đổi, vẻ đẹp của chúng được để nguyên vẹn. Hơn nữa, nhờ việc giữ cho những thông tin ghi dấu nơi các cửa giác quan được tinh nguyên, không bị pha trộn với sự Tham muốn và những niệm tưởng Bám Chấp, nên tất cả những hình thái ảo huyễn do Tâm hiện khởi đều là trạng thái giác biết rõ ràng và vô phân biệt của tánh Không sáng tỏ.
Một số hành giả với căn cơ thấp có thể cảm thấy bối rối trước những giáo lý "thâm sâu và quảng đại", và nếu như Thầy có thể cô đọng nội dung ấy thành một lời khai thị có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho họ, Thầy sẽ nói rằng: Khoảng trống của sự dừng nghỉ giữa một niệm và sự khởi sinh của niệm kế tiếp chính là khoảnh khắc bất biến của Ý Thức hiện tiền (tại-đây-và-bây-giờ), chẳng phải đó là sự giác biết trọn vẹn và rõ ràng sao? Ho! Đó chắc chắn chính là thực tại thuần khiết! Và vì con không thể an trú trong không gian của sự hay biết như thị thuần khiết, nên một niệm sinh khởi là chuyện khó tránh khỏi, đúng không? Niệm tưởng đó là sự biểu hiển sáng tạo của thực tại thuần khiết! Nếu con thất bại trong việc nhận biết ý niệm ngay khi nó sinh khởi, nó sẽ sản sinh ra thêm những suy nghĩ phán xét lang thang bất định, có thể gọi tên là "chuỗi ảo vọng" và đây chính là căn nguyên của Luân Hồi. Khi con nhận biết được ý niệm lúc nó mới bắt đầu khởi và chỉ để nguyên như vậy mà không chạy theo nó, thì bất kỳ ý niệm nào sinh khởi cũng đều lập tức được giải phóng vào trong thực tại thuần khiết của Pháp Thân.
~ Dudjom Rinpoche
Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2021
Lời Khuyên của Bậc Hành Giả
Đừng dính mắc vào hình tướng bên ngoài,
Tâm của con mới thật là vị Đạo Sư (Guru) vĩ đại.
Đừng tin mê vào những quyền năng huyễn thuật,
Sự chuyển hóa thật sự nơi Tâm mới là sức mạnh mầu nhiệm cao quý.
Đừng dựa dẫm vào lực gia trì,
Liên tục gìn giữ Tâm Chánh Niệm mới chính là nguồn đại ân phước.
~ Togden Amtrin, Thrinle Lodrö
*Hình: bên trái là Togden Amtrin và bên phải là Togden Ajam.
Do not cling the external physiognomy.
Your mind is your own real great guru.
Do not superstitious magic powers.
Real change in mind is great magic power.
Do not rely on the blessing.
Keeping Mindfulness continually is great blessing.
~ Togden Amtrin, Thrinle Lodrö
*Photo: Togden Amtrin left with Togden Ajam right.
(Eng Source: Naldjor's FB)
Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021
Vượt khỏi mọi Khái Niệm
Đó là những khái niệm.
Đau đớn là một khái niệm.
Sự bó buộc là một khái niệm.
Hãy an trú trong Tâm tỉnh thức vượt khỏi mọi khái niệm.
Hãy để cho cái-ngã-vượt-ra-ngoài-bản-ngã quán xét về những khái niệm và không khái niệm của: Đau và không Đau.
Cảm giác đau đớn giống như một đám mây, khởi hiện thoáng qua Tâm tỉnh thức.
Những sự bó buộc, tiếng dạ dày sôi, những cơn đau là những hình thức mãnh liệt khởi hiện khi Tâm tỉnh thức.
Hãy trú trong Tâm tỉnh thức và để cho sự tỉnh thức dần trở nên lớn mạnh hơn những cơn đau.
Trong sự tỉnh thức lớn rộng như bầu trời,
Không có chỗ cho những khái niệm trú ẩn.
Hãy để cho chúng đến. Hãy để chúng biến đi.
Có ai nắm níu những cơn đau?
Nếu bạn trở thành một với cơn đau,
Thì sẽ chẳng có ai bị thương tổn.
Đó chỉ là những cảm giác khi tâm chú ý đến và được đặt tên là "cơn đau".
Không có ai nắm giữ cơn đau cả.
Điều gì sẽ xảy ra khi không có ai nắm giữ cơn đau?
Đau chỉ là đau.
Thực chất không chỉ thế, cơn đau chỉ là một định danh (một cái tên được gán đặt).
Hãy cảm nhận những cảm giác.
Hãy vượt thoát khỏi mọi khái niệm,
Nhưng vẫn giữ sự tỉnh thức ở thực tại.
Ngoài ra, chẳng còn gì cả.
Hãy kinh nghiệm như thế.
Hãy để mọi sự như nó là.
~Yonger Mingyur Rinpoche
(Eng Source: Padmamalla's IG)
Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021
Chánh Niệm: Chiếc Gương của Tâm
Kính lễ Chánh Niệm tự sinh khởi,
Chánh Niệm như bậc Đế Vương tối thắng!
~Nyoshul Khen Rinpoche
Mindfulness: The Mirror of the Mind
Thứ Năm, 4 tháng 11, 2021
Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền
Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền - Đức Phật Nguyên Thủy Samantabhadra
Ho! Tất cả mọi thứ – hình tướng và hiện hữu, Luân Hồi và Niết Bàn, mang một nền tảng duy nhất, nhưng có hai Con Đường dẫn đến hai Kết Quả, và hiển bày một cách kỳ diệu thành Tỉnh-Thức hoặc Không-Tỉnh-Thức.
Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh đều đạt thành Phật Quả, viên mãn toàn hảo, an trú nơi cõi Pháp Giới chân như. Nền Tảng của mọi hiện tượng không do tạo tác, là không gian quảng đại vô biên tự sinh khởi, vượt ngoài sức diễn đạt, không mang danh tự Luân Hồi hay Niết Bàn. Chỉ Giác Ngộ được điều này, thì con là một vị Phật; nếu không trực nhận được nó, con là một chúng sinh lang thang trong Luân Hồi.
Ta cầu nguyện tất cả chúng sinh trong Tam Giới có thể giác ngộ được nghĩa lý chân thật của Nền Tảng không thể diễn bày này.
Ta, Phổ Hiền, đã Giác Ngộ chân lý của Nền Tảng này, vượt thoát mọi Nhân Duyên, đó chỉ là Giác Tánh tự-sinh-khởi. Nó không bị nhiễm ô bởi những biểu hiện bên ngoài và ý niệm bên trong, bởi sự khẳng định hay phủ định, và không bị nhơ bẩn bởi màn đêm của Tâm thất Niệm. Như thế, sự hiển bày tự-hiện-hóa này không có những lầm lỗi.
Ta, Phổ Hiền, trú trong sự Tỉnh-Thức nội tại. Dù Tam Giới bị hủy diệt, cũng không có sợ hãi. Không có sự bám luyến vào những Dục Lạc của Năm giác quan. Trong Tánh biết tự-sinh-khởi, giải thoát mọi ý niệm, không có hình tướng nào chắc thật, kể cả Ngũ Độc.
Trong trạng thái Tỉnh-Thức liên tục sáng rõ, tinh túy là bất nhị, vẫn hiện khởi sự phô diễn của Ngũ Trí. Khi Ngũ Trí chín muồi, Ngũ Bộ Phật Nguyên Thủy hiện lên, và thông qua sự triển khai mở rộng Trí Tuệ của chư vị, 42 vị Phật an bình xuất hiện. Khi sức mạnh của Ngũ Trí phát sinh, 60 Heruka phẫn nộ sẽ hóa hiện. Như vậy, Nền Tảng của sự Tỉnh-Thức không bao giờ nhầm lẫn hay sai lệch.
Ta, Phổ Hiền, là Phật khởi nguyên của tất thảy, và qua lời cầu nguyện này của ta, nguyện cho tất cả chúng sinh lang thang trong Tam Giới Luân Hồi trực nhận được Giác Tánh tự-sinh-khởi, và nguyện cho Tuệ Giác vĩ đại của họ cũng tự nhiên tăng trưởng.
Hàng tỷ hóa thân của ta sẽ liên tục xuất hiện theo vô số cách không thể nghĩ bàn, xuất hiện trong nhiều hình tướng để trợ giúp những chúng sinh cần được rèn luyện. Ngay từ ban đầu, chúng sinh đều bị mê lầm bởi đã không nhận ra được Giác Tánh Nền Tảng.
Như vậy, sống bằng Tâm thất Niệm trước những gì xảy ra chính là Mê Lầm – trạng thái Không-Tỉnh-Giác và là nguyên nhân của sự lạc lối. Từ trạng thái Mê Lầm này kéo đến cơn bất tỉnh đột ngột làm kích khởi nỗi sợ hãi chao động trong tầng ý thức vi tế.
Từ cơn chao động đó, nảy sinh khái niệm phân biệt về “ta” và nhận thức “chúng sinh khác” như là “kẻ đối nghịch”. Dần dần, xu hướng phân biệt này càng mạnh mẽ hơn, và từ đây, vòng Luân Hồi bắt đầu.
Tiếp đến, những cảm xúc của Ngũ Độc phát triển – những hành xử từ các cảm xúc đó chẳng bao giờ kết thúc. Chúng sinh sống mà không có Tỉnh Thức do mất Chánh Niệm, và đây là căn bản cho việc họ lạc đường.
Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả
chúng sinh nhận ra được Giác Tánh nội tại! Sự Không-Tỉnh-Giác
vốn do Tâm Thất Niệm và Xao Lãng. Để cho Thất Niệm xảy ra
nghĩa là đưa vào những ý niệm phân biệt nhị nguyên giữa “ta”
và “chúng sinh khác”. Cả hai trường hợp Thất Niệm này là những
cơ sở cho sự mê lầm của tất cả chúng sinh.
Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh
lang thang trong luân hồi sẽ xóa tan màn sương mù tối của sự Thất
Niệm, xóa tan những ý niệm bám chấp nhị nguyên!
Nguyện tất cả chúng sinh trực nhận được sự Tỉnh Thức nội tại của chính mình! Các tư tưởng nhị nguyên tạo nên Nghi Hoặc, do những bám chấp vi tế vào những tư tưởng nhị nguyên này khiến cho khuynh hướng Tâm phân biệt càng trở nên mạnh mẽ và sâu dày hơn. Thực phẩm, của cải, y phục, nhà cửa và bạn bè, Năm đối tượng của các giác quan và gia đình thân yêu - tất cả những thứ này gây ra sự đau khổ bằng cách tạo ra niềm khát khao và dục vọng. Đây là tất cả những mê lầm trần tục; là những hoạt động của sự tham lam và bám chấp bất tận. Khi Quả của sự Tham Luyến chín muồi, chúng sinh sẽ tái sinh làm Quỷ Đói, chịu dày vò bởi sự thèm muốn và dục vọng, khốn khổ của đói và khát.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh nào mang dục vọng và ham muốn do những bám chấp, không chối bỏ ham muốn dục vọng, cũng không thuận theo những tham luyến trước các dục. Hãy để ý thức buông thư trong trạng thái thái tự nhiên của chính nó, sau đó sẽ có thể duy trì được sự Tỉnh-Thức. Nguyện cho chúng sinh đạt được Tuệ Giác sáng suốt toàn hảo!
Khi các đối tượng bên ngoài xuất hiện, ý thức vi tế của sự nỗi sợ sẽ sinh khởi. Từ nỗi sợ hãi này, tập khí sân giận trở nên ngày càng mạnh mẽ. Cuối cùng, thái độ thù địch xuất hiện, gây ra hành vi bạo lực và tàn sát. Khi Quả của niềm Sân Giận này chín muồi, chúng sinh phải chị đau đớn trong địa ngục nấu sôi và thiêu cháy.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh trong Sáu Cõi, khi cơn sân giận mãnh liệt khởi sinh, không chối bỏ hay thuận theo nó. Thay vào đó hãy buông xả trong trạng thái tự nhiên và đạt được Tuệ Giác sáng rõ!
Khi Tâm trở nên đầy ngạo mạn, những tư tưởng hơn thua (kiêu mạn) và nhục mạ kẻ khác sẽ khởi sinh. Khi niềm Kiêu Mạn này ngày càng mạnh mẽ hơn, chúng sinh sẽ nếm trải sự đau khổ của những cuộc cãi vã và lăng mạ. Khi Quả của nghiệp này chín muồi, chúng sinh đó sẽ tái sinh vào các cõi Trời và nếm trải nỗi đau khổ của sự thay đổi và đọa lạc vào những cõi tái sinh thấp hơn.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh có Tâm kiêu mạn tăng trưởng, buông xả được ý thức của họ trong trạng thái tự nhiên và có thể duy trì được trạng thái Tỉnh Giác. Nguyện cho họ đạt được Trí Tuệ của Tánh Bình Đẳng!
Do tăng trưởng thói quen phân biệt nhị nguyên, do tự
ca ngợi bản thân và chê bai kẻ khác, Tâm đua tranh, tỵ hiềm dẫn đến
sự bùng khởi chiến tranh, và chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi Trời
đố kỵ (Asura), nơi chỉ toàn giết chóc và thương tích. Từ Quả của
hành vi sát hại, chúng sinh đó sẽ đọa vào cảnh giới Địa
Ngục.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng
sinh khi khởi lên những tư tưởng tỵ hiềm và ganh đua, không xem
những ý niệm này là kẻ thù. Họ chỉ cần buông xả trong thư thái
thì ý thức có thể trụ vào trạng thái tự nhiên. Nguyện chúng sinh
đạt được Tuệ Giác của hành động không trở ngại!
Do tán Tâm, bất cẩn và thất niệm, chúng sinh trở nên đờ đẫn, mờ tối và đãng trí. Do thiếu ý thức và lười nhác mà vô minh tăng trưởng, và Quả của sự vô minh này là cuộc lang thang bất lực trong cõi Súc Sanh.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho
tất cả chúng sinh đã rơi vào hố đen của vô minh phát tỏa ánh sáng
của Chánh Niệm, và nhờ đó đạt được Tuệ Giác vô niệm.
Tất cả chúng sinh trong Tam Giới thực chất giống hệt chư Phật,
bởi đều có cùng một Nền Tảng. Nhưng sự lầm lẫn về Nền Tảng
khiến cho chúng sinh lạc lối, rồi hành xử không có mục tiêu. Sáu
Nghiệp Hành chỉ là ảo ảnh, tựa một giấc mơ. Ta là vị Phật Nguyên
Thủy, ở đây để uốn nắn Sáu loại chúng sinh thông qua tất cả những
hóa hiện.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh không chừa sót chứng đạt Giác Ngộ trong trong trạng thái của Pháp Giới chân như.
Ah Ho! Trong tương lai, bất cứ khi nào một hành giả có năng lực mạnh mẽ, trong trạng thái Tỉnh-Giác rạng rỡ và không mê lầm, trì tụng bài cầu nguyện đầy oai lực này, thì tất cả chúng sinh nào nghe thấy sẽ đạt được Giác Ngộ trong vòng ba kiếp sống.
Trong kỳ nhật thực hoặc nguyệt thực, trong khi xảy ra động đất hoặc khi quả địa cầu vang rền, vào các ngày lập chí (hạ chí và đông chí) hoặc thời khắc giao thừa, hành giả nên quán tưởng Đức Phổ Hiền và tụng đọc bài nguyện lớn tiếng để tất cả có thể nghe thấy, thì chúng sinh trong ba cõi sẽ dần được giải thoát khỏi khổ đau. Thông qua lời cầu nguyện của hành giả, cuối cùng, họ sẽ đạt được Giác Ngộ.
Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021
Móc Chánh Niệm
Một người bị mắc dính vào cái móc thì không có quyền lựa chọn mà luôn phải đi đến bất cứ nơi nào anh ta bị dẫn kéo. Tương tự như thế, nếu chúng ta bắt giữ được Tâm - thứ luôn có nguy cơ bị điên đảo trước những đối tượng của Sáu giác quan - với cái móc của Chánh Niệm, với sự cảnh giác và thận trọng, sẽ đem lại lợi ích vô cùng to lớn. Chúng ta nên sử dụng người gác cổng này để liên tục kiểm tra xem có bao nhiêu những niệm tưởng tích cực, tiêu cực và những hành động được chúng ta tạo tác trong ngày. Một khi chúng ta đã có thể kiểm soát được Tâm nhờ Chánh Niệm, mọi thứ xuất hiện nơi Luân Hồi và Niết Bàn trở thành phương tiện trợ giúp cho sự thực hành và đem lại lợi ích trong việc xác chứng ý nghĩa của những giáo lý [đã được lãnh thọ]. Tất cả mọi hình tướng được hiểu như là hiện hữu của Pháp Thân. Chúng ta nhận thức mọi thứ trong sự "thanh tịnh tự nhiên" của chúng, và không có thứ gì chúng ta có thể cho là "bất tịnh" được.
~ Dilgo Khyentse Rinpoche (Trích từ Quyển "Chúc thư của Zurchungpa")
Hiểu Đúng về Thiền
...Tư Duy chân chánh và thực thụ nghĩa là sống trong Thực Tại (hoàn cảnh thực tế), một cảnh thực tại không chỉ chứa đựng Không tánh, mà còn gồm cả điều chúng ta gọi là "sự biến chuyển". Vậy nên, nếu một người không có khả năng kết hợp hoặc sống trong sự biến chuyển đó, thì người này còn cách khá xa với thực tại.
Nếu như con thật sự hiểu biết về những giáo huấn của Mật Điển, con sẽ biết cách làm thế nào để "ở trong động" và cũng cùng lúc đó, con duy trì trạng thái Tư Duy. Thế thì, nếu như con nhảy múa suốt ngày, hay tĩnh toạ bất động cả ngày, sẽ chẳng có gì là khác biệt cả. Có lẽ, hành giả nào có thể kết hợp [tu tập] trong động thì có thể sẽ chứng đạt Giác Ngộ nhanh hơn, đây là lý do vì sao mà hành động được áp dụng nhiều hơn trong những giáo huấn Mật Điển. Như con có thể thấy, có sự chuyển động ngay cả trong luồng năng lượng của chính con, vậy nên trong Mật Thừa, phương tiện chuyển hóa đòi hỏi sự kết hợp mọi thứ vào trong nguyên lý trên.
Ta không nói rằng việc kết hợp hay thâm nhập được Trí Tư [đến mức độ như thế] là dễ dàng, nó cần thời gian dài và chẳng dễ dàng một chút nào cả.
~Namkhai Norbu Rinpoche(English Soure: Vajra Wisdom's IG)
Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021
Sức mạnh của Chánh Niệm
"Hứng chịu ngược đãi từ kẻ thù là hình thức khổ hạnh tốt nhất,
Nhưng đối với ai ghét bỏ chỉ trích và bám thích những lời ca tụng,
Những ai chịu đau đớn cùng cực do đào bới tất cả sai lầm của người khác,
Thì thất bại trong việc bảo vệ đúng đắn dòng tâm thức họ,
Và những kẻ luôn cáu kỉnh, nóng tính,
Chắc chắn sẽ làm gãy bể giới nguyện với hội chúng,
Vì vậy, con hãy không ngừng nương dựa vào sự Chánh Niệm, Cảnh Giác và Chánh Trực [của Tâm con]."
— Thánh Đức Chatral Sangye Dorje Rinpoche
(Nguồn: FB Jun Kai)
"To bear mistreatment from our enemies is the best form of austerity,
But those who hate criticism and are attached to compliments,
Who take great pains to discover all the faults of others,
While failing to keep proper guard over their own mindstream,
And who are always irritable and short-tempered,
Are certain to bring breakages of samaya upon all their associates,
So rely constantly on mindfulness, vigilance and conscientiousness."
— His Holiness Chatral Sangye Dorje Rinpoche
(Soure: Jun Kai's FB)
Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021
Tu Tập Nội Bồ Đề Tâm
B.TU TẬP NỘI BỒ ĐỀ TÂM (BỒ ĐỀ TÂM BÊN TRONG)
Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Hành giả nên luyện tập thế nào khi phát khởi Bồ Đề Tâm theo con đường bên trong?
Đạo Sư đáp: Theo đó, có mười hai điểm tu tập.
1. CỐT TỦY
Cốt tủy là sự khởi phát ý định giúp đỡ những chúng sinh không nhận biết được rằng: Bản tánh bẩm sinh, thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu), là không do tạo tác.
2. ĐỊNH NGHĨA
Không phụ thuộc vào những hành động “bên ngoài” của Thân hay Khẩu, nó được gọi là “nội” Bồ Đề Tâm vì chỉ được triển khai riêng bởi Tâm con.
3. SỰ PHÂN CHIA
Được phân thành hai: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).
Nguyện Ước là ước muốn những chúng sanh nào chưa giác ngộ được bản tánh này có thể nhận ra nó. Chỉ ngồi yên và lẩm nhẩm điều này thì chưa đủ; Con phải nỗ lực trong mọi điều kiện để giúp cho tất cả chúng sanh nhận ra nó.
Tsogyal, chừng nào con chưa (tự) giải thoát khỏi sự bám chấp nhị nguyên thì việc Hành Dụng sẽ còn khá khó khăn.
4. NHỮNG TỐ CHẤT CỦA HÀNH GIẢ
Bao hàm những phần giảng giải trước, đặc điểm của hành giả dấn thân vào con đường tu tập này là chỉ dùng những khái niệm tạo tác ở mức độ tối thiểu.
Tsogyal, hãy để cho Tâm con nghỉ ngơi!
5. ĐỐI TƯỢNG ĐỂ THỌ NHẬN
Con cần lãnh thọ từ một Đạo Sư đã chứng ngộ bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã) thông qua sự tu tập Ba Trí (Văn, Tư, Tu), và nhờ đó đã thoát khỏi Tám Mối Bận Tâm Thế Gian.
Tsogyal, một Đạo Sư là thiết yếu để con bước vào cánh cổng của giáo lý Đại Thừa.
6. NGHI LỄ THỌ NHẬN
Hãy tự giải thoát mình khỏi Ba Lớp Ý Niệm (ba phạm vi: đối tượng, chủ thể, hành vi), từ bỏ sự bận tâm đến tất cả các hoạt động thế gian, và như thế, con hãy thỉnh cầu để nhận lấy những hướng dẫn khẩu truyền chân thật.
7. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP
Con sẽ nâng tầm vượt xa trên Tiểu Thừa và những con đường sai lạc. Từ đó, việc thực hành sẽ phát huy hiệu lực giúp con từ bỏ mọi tư duy ích kỷ và chấp thủ nhị nguyên, để rồi con sẽ chứng ngộ bản tánh Vô Ngã.
8. NGUYÊN DO TU TẬP
Nguyên do cần tu tập phát khởi Bồ Đề Tâm theo cách thức từ bên trong là đưa tất cả chúng sanh vào con đường chân thật, đó là bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã).
9. NHỮNG LỖI LẦM KHI KHÔNG TU TẬP
Khuyết điểm khi không tu tập là con sẽ đi lạc khỏi bản tánh Vô Ngã.
Những người bình phàm với Tâm thức chưa có sự chuyển đổi nhờ (cơ sở lý luận của) một trường phái triết học Phật Giáo nào đó, và với đối tượng không liên quan đến Phật Giáo-là những người đã thâm nhập vào một trường phái triết học sai lạc, thì "bản ngã" của họ được xem như là "một con người" kiểm soát và kinh nghiệm Ngũ Uẩn, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới. Hơn nữa, khi cho rằng "bản ngã" này là trường cửu, là vững chắc, họ chấp chặt vào nó, từ đó tạo lập khái niệm "bạn" và "thù", "ta" và "người khác".
Tsogyal, con phải nhổ lên cây cọc của sự chấp thủ.
Mối nguy hiểm của việc khái niệm hóa một "cái Tôi cá nhân" là khi hiểu lầm có một bản ngã và một cái-Tôi-có-thực, thì những đối tượng sẽ xuất hiện như là “thứ gì khác” [biệt lập với cái-Tôi-cá-nhân]. Vì dính mắc vào tư tưởng phân biệt như vậy, con sẽ xem những gì lợi ích cho “cái Tôi” là Bạn, và những gì gây tổn hại cho “cái Tôi” là Thù. Từ đó, những kinh nghiệm của ái luyến và ghét bỏ sẽ khiến con phạm vào nhiều loại hành vi bất thiện. Do những hành động này, con sẽ lang thang trong ba cõi thấp và khắp chốn Luân Hồi.
Tsogyal, nếu không trục xuất Tâm thức độc hại này, con sẽ không tìm được hạnh phúc.
Đối tượng hành giả nào bác bỏ [sự thực có] của "bản ngã"? Nói chung, nó bị bác bỏ bởi tất cả Phật tử. Nói riêng, chư Thanh Văn Giác đặc biệt phá trừ chấp ngã. Dĩ nhiên, những hành giả đã nhập môn Đại Thừa cũng phá bỏ sự chấp thủ vào một cái-Tôi-cá-thể.
Có lời tuyên bố cho rằng chư Thanh Văn Giác thì chứng ngộ một phần bản chất của hiện tượng và chư vị Độc Giác cũng không chứng ngộ điều đó hoàn toàn. Nghĩa là hàng Thanh Văn khẳng định nhầm lẫn về sự hiện hữu của các yếu tố vật chất (tức chấp thủ Sắc Pháp thực hữu) thay vì cần phải liễu tri rằng bản tánh của mọi hiện tượng (kể cả vật chất và tinh thần - cả Sắc Pháp và Danh Pháp) thảy đều Vô Ngã, còn chư Độc Giác Phật thì lại dính mắc vào sự an trú trong trạng thái tinh túy rỗng lặng của Tâm thay vì thấu suốt thực nghĩa (để lìa bỏ cả trạng thái đó).
Tsogyal, chừng nào con chưa thoát khỏi những tín điều thuộc những trường phái triết học thấp, con sẽ không lãnh hội được thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu).
Sự nguy hiểm của việc tạo lập nên khái niệm bản thể của hiện tượng là: một khi con đã quyết đoán và chấp chặt vào điều này, con sẽ tạo ra những phiền não. Chính chúng là Nhân dẫn con lang thang trong luân hồi. Cho dù nỗ lực trong bao nhiêu kỳ kiếp [nhưng nếu không ý thức được điều này] thì mọi cố gắng [giải thoát] của con là vô nghĩa.
Đối tượng hành giả nào bác bỏ bản thể của hiện tượng? Nói chung, tất cả hành giả Đại Thừa đều bác bỏ nó. Nói riêng, sẽ là một tín hiệu xấu nếu như chúng ta đã bước vào cánh cổng Chân Ngôn Bí Mật mà còn chấp thủ thiên kiến, theo đó, những hành giả thuộc Trung Đạo cũng bác bỏ nó.
10. NHỮNG ĐIỂM CẦN TUÂN THỦ.
Con nên tu tập trong nghĩa lý Vô Ngã, điều này có hai loại: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).
Ba điểm trọng yếu của Nguyện (Ước) phải được dõi sát như sau.
1. Không ngừng thiết lập Nguyện (Ước) với suy nghĩ: Mong rằng tất cả chúng sanh luôn nhận ra lý tánh Vô Ngã.
2. Tu tập ngày ba thời, đêm ba thời trong sự tùy hỷ với người khác là những hành giả đang thiền định về ý nghĩa của Vô Ngã.
3. Luôn tự rèn luyện mình một cách tinh cần [trong nỗ lực] không để bản thân lạc khỏi ý nghĩa của Vô Ngã.
Thứ hai, Hành (Dụng) cần phải dõi sát trong hai khía cạnh thuộc bên trong và bên ngoài.
💎 Bốn sự tu tập bên ngoài là:
1. Không lìa xa Đạo Sư hay người bạn tâm linh đã giảng dạy con ý nghĩa của Vô Ngã cho đến khi con chứng ngộ nó.
2. Buông bỏ thiên kiến liên quan đến nơi chốn cư trú, đất nước hay vùng miền, địa vị chức tước, thù và bạn.
3. Học hỏi, suy tư và thiền định về giáo lý minh giải (giải thích và chứng minh) về Vô Ngã và Không tánh.
4. Không chấp vào tự ngã [và nghĩ rằng có một "cái Tôi"] đang tồn tại vì có danh tính, gia đình, hay thân thể [chắc thật].
💎 Bốn sự tu tập bên trong là:
1. Chớ hiểu rằng những tên gọi [được xã hội gán đặt và sử dụng] là những sự vật thực sự tồn tại, vì mọi nhãn hiệu và tên gọi của sự vật bên ngoài thì không hiện hữu trong Tâm con.
2. Hãy nhận thức rằng mọi thứ tạo lập nên thế giới cùng tất cả chúng sinh trong đó đều vô tự tánh (không có bản thể thực sự), dù có xuất hiện thì cũng chỉ như những giấc mộng và ảo huyễn.
3. Ngày ba thời, đêm ba thời, con hãy tìm cho ra sự bám chấp vào các đối tượng khác nhau của Tâm, dù thực chất chẳng có thứ gì thật sự tồn tại.
4. Giữ mình không lạc khỏi thực nghĩa - vốn không có bất kỳ tên gọi (khái niệm) và những cực đoan nào. Dẫu cho có tìm kiếm Tâm mình, thì nó cũng chẳng thể được tìm thấy như là bất cứ thứ gì.
Đó là những điều tối quan trọng để con tự tinh tấn rèn luyện theo con đường này. Nhờ thực hành theo con đường này, con sẽ trừ diệt được những tâm thức độc hại và dứt bỏ được Luân Hồi.
11. RANH GIỚI GIỮA VIỆC ĐƯỢC VÀ MẤT GIỚI NGUYỆN
Khoảnh khắc lãnh thọ Nội Giới Bồ Đề Tâm (Bồ Đề Tâm bên trong) là khi con nhận được những hướng dẫn khẩu truyền từ Đạo Sư của con.
Lúc mất nguyện là khi con chạy theo những bám chấp nhị nguyên thông thường mà không ý thức về việc bản thể không [thực sự] tồn tại. Ngay lúc bị mất [và nhận ra], hãy áp dụng phương pháp đối trị thật dứt khoát!
12. PHƯƠNG PHÁP PHỤC HỒI GIỚI NGUYỆN HƯ TỔN
Gìn giữ sự tu tập không sao lãng những nghĩa lý vừa giải thích trên, con sẽ tự động tháo cởi đượt nút thắt (sự trói buộc) của [tư tưởng] chấp thủ nhị nguyên.
~ Guru Padmasambhava
(Trích dịch từ Quyển Giáo Huấn Chư Dakini, NXB Rangjung Yeshe, 1999)
[Mời bạn xem thêm nội dung và tải bản pdf tại đây]
Thứ Năm, 28 tháng 10, 2021
Nền Tảng Giác Ngộ
Điểm khác biệt giữa chư Phật và chúng sinh là chúng sinh luôn "bận rộn chế tác". Sự "thức tỉnh vốn có" nơi chúng ta lại trở nên biến đổi và giả dối. Nó trở thành [thứ gì đó] được tạo tác. Và nếu cứ tiếp tục như thế càng lâu bao nhiêu thì chúng ta sẽ lang thang trong Luân Hồi lâu bấy nhiêu. Thay vào đó, chúng ta cần giác ngộ bản tánh của Tâm. Ngay lúc này, tôi đang giải thích nó để các bạn có đôi chút khái niệm, hiểu về nó là như thế nào. Bước kế tiếp là bạn phải tự trải nghiệm. Chỉ hiểu bản tánh Tâm ra sao trên mặt trí thức thì ko đủ; bạn cần thật sự nếm trải nó, và cuối cùng chứng ngộ nó. Hãy luyện tập cho đến khi nó không còn bị gián đoạn.
Một người [gọi là] được khai mở vào tánh Không - là việc nhận ra tánh Không chính là "sự thức tỉnh tự giác biết" (self-cognizant wakefulness). Sự tỉnh thức không hư dối này gọi là "cái biết". Mỗi cá nhân đều có tiềm năng này. "Bản tánh" của các bạn là "Không tánh" và "tính chất" của các bạn là sự "rõ biết", cũng giống như tính chất của Lửa là Nóng. Tâm thì Vô Tự Tánh, nhưng nó mang năng lực "hay biết"; tính chất của nó là "tự nhiên hay biết". Hai phương diện này hợp nhất gọi là "Cái Biết Rỗng Không" (Empty Cognizance).Việc lãnh hội điều này rất quan trọng. Nếu ko, chúng ta có thể nghĩ rằng Trạng Thái Giác Ngộ là một thứ gì đó chúng ta cần tạo ra và đạt được - có thể là gì đó mà vị Thầy 'ban cho' ta, hay có lẽ là thứ chúng ta 'tạo ra được' sau nhiều năm tu luyện. Nó Ko phải như thế! Trọng tâm của vấn đề chỉ đơn thuần là trạng thái phân tán hay ko bị xao lãng khỏi "cái biết về sự thức tỉnh hiện tiền". Tâm phóng tán là một chúng sinh; Tâm bất động là một vị Phật. Tâm bất động là sự giác ngộ được bản tánh. Ko có sự nỗ lực trong việc thật sự chứng ngộ bản tánh; nó không cần dụng công.
~ Tulku Urgyen Rinpoche
-
Đôi lần gặp được bậc Chân Nhân, Mà do Si ám chẳng chịu gần, Đợi Thầy cất bước về cõi Phật, Con mới nhận lại mối tình thân! Lời Thầy răn giờ ...