Hiển thị các bài đăng có nhãn Mật Điển. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mật Điển. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 4 tháng 11, 2021

Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền

 

Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền - Đức Phật Nguyên Thủy Samantabhadra


 

Ho! Tất cả mọi thứ – hình tướng và hiện hữu, Luân Hồi và Niết Bàn, mang một nền tảng duy nhất, nhưng có hai Con Đường dẫn đến hai Kết Quả, và hiển bày một cách kỳ diệu thành Tỉnh-Thức hoặc Không-Tỉnh-Thức.

Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh đều đạt thành Phật Quả, viên mãn toàn hảo, an trú nơi cõi Pháp Giới chân như. Nền Tảng của mọi hiện tượng không do tạo tác, là không gian quảng đại vô biên tự sinh khởi, vượt ngoài sức diễn đạt, không mang danh tự Luân Hồi hay Niết Bàn. Chỉ Giác Ngộ được điều này, thì con là một vị Phật; nếu không trực nhận được nó, con là một chúng sinh lang thang trong Luân Hồi.

Ta cầu nguyện tất cả chúng sinh trong Tam Giới có thể giác ngộ được nghĩa lý chân thật của Nền Tảng không thể diễn bày này.

Ta, Phổ Hiền, đã Giác Ngộ chân lý của Nền Tảng này, vượt thoát mọi Nhân Duyên, đó chỉ là Giác Tánh tự-sinh-khởi. Nó không bị nhiễm ô bởi những biểu hiện bên ngoài và ý niệm bên trong, bởi sự khẳng định hay phủ định, và không bị nhơ bẩn bởi màn đêm của Tâm thất Niệm. Như thế, sự hiển bày tự-hiện-hóa này không có những lầm lỗi.

Ta, Phổ Hiền, trú trong sự Tỉnh-Thức nội tại. Dù Tam Giới bị hủy diệt, cũng không có sợ hãi. Không có sự bám luyến vào những Dục Lạc của Năm giác quan. Trong Tánh biết tự-sinh-khởi, giải thoát mọi ý niệm, không có hình tướng nào chắc thật, kể cả Ngũ Độc. 

Trong trạng thái Tỉnh-Thức liên tục sáng rõ, tinh túy là bất nhị, vẫn hiện khởi sự phô diễn của Ngũ Trí. Khi Ngũ Trí chín muồi, Ngũ Bộ Phật Nguyên Thủy hiện lên, và thông qua sự triển khai mở rộng Trí Tuệ của chư vị, 42 vị Phật an bình xuất hiện. Khi sức mạnh của Ngũ Trí phát sinh, 60 Heruka phẫn nộ sẽ hóa hiện. Như vậy, Nền Tảng của sự Tỉnh-Thức không bao giờ nhầm lẫn hay sai lệch.

Ta, Phổ Hiền, là Phật khởi nguyên của tất thảy, và qua lời cầu nguyện này của ta, nguyện cho tất cả chúng sinh lang thang trong Tam Giới Luân Hồi trực nhận được Giác Tánh tự-sinh-khởi, và nguyện cho Tuệ Giác vĩ đại của họ cũng tự nhiên tăng trưởng.

Hàng tỷ hóa thân của ta sẽ liên tục xuất hiện theo vô số cách không thể nghĩ bàn, xuất hiện trong nhiều hình tướng để trợ giúp những chúng sinh cần được rèn luyện. Ngay từ ban đầu, chúng sinh đều bị mê lầm bởi đã không nhận ra được Giác Tánh Nền Tảng.

Như vậy, sống bằng Tâm thất Niệm trước những gì xảy ra chính là Mê Lầm – trạng thái Không-Tỉnh-Giác và là nguyên nhân của sự lạc lối. Từ trạng thái Mê Lầm này kéo đến cơn bất tỉnh đột ngột làm kích khởi nỗi sợ hãi chao động trong tầng ý thức vi tế.

Từ cơn chao động đó, nảy sinh khái niệm phân biệt về “ta” và nhận thức “chúng sinh khác” như là “kẻ đối nghịch”. Dần dần, xu hướng phân biệt này càng mạnh mẽ hơn, và từ đây, vòng Luân Hồi bắt đầu.

Tiếp đến, những cảm xúc của Ngũ Độc phát triển – những hành xử từ các cảm xúc đó chẳng bao giờ kết thúc. Chúng sinh sống mà không có Tỉnh Thức do mất Chánh Niệm, và đây là căn bản cho việc họ lạc đường.

Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh nhận ra được Giác Tánh nội tại! Sự Không-Tỉnh-Giác vốn do Tâm Thất Niệm và Xao Lãng. Để cho Thất Niệm xảy ra nghĩa là đưa vào những ý niệm phân biệt nhị nguyên giữa “ta” và “chúng sinh khác”. Cả hai trường hợp Thất Niệm này là những cơ sở cho sự mê lầm của tất cả chúng sinh.
Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh lang thang trong luân hồi sẽ xóa tan màn sương mù tối của sự Thất Niệm, xóa tan những ý niệm bám chấp nhị nguyên!

Nguyện tất cả chúng sinh trực nhận được sự Tỉnh Thức nội tại của chính mình! Các tư tưởng nhị nguyên tạo nên Nghi Hoặc, do những bám chấp vi tế vào những tư tưởng nhị nguyên này khiến cho khuynh hướng Tâm phân biệt càng trở nên mạnh mẽ và sâu dày hơn. Thực phẩm, của cải, y phục, nhà cửa và bạn bè, Năm đối tượng của các giác quan và gia đình thân yêu - tất cả những thứ này gây ra sự đau khổ bằng cách tạo ra niềm khát khao và dục vọng. Đây là tất cả những mê lầm trần tục; là những hoạt động của sự tham lam và bám chấp bất tận. Khi Quả của sự Tham Luyến chín muồi, chúng sinh sẽ tái sinh làm Quỷ Đói, chịu dày vò bởi sự thèm muốn và dục vọng, khốn khổ của đói và khát.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh nào mang dục vọng và ham muốn do những bám chấp, không chối bỏ ham muốn dục vọng, cũng không thuận theo những tham luyến trước các dục. Hãy để ý thức buông thư trong trạng thái thái tự nhiên của chính nó, sau đó sẽ có thể duy trì được sự Tỉnh-Thức. Nguyện cho chúng sinh đạt được Tuệ Giác sáng suốt toàn hảo!

Khi các đối tượng bên ngoài xuất hiện, ý thức vi tế của sự nỗi sợ sẽ sinh khởi. Từ nỗi sợ hãi này, tập khí sân giận trở nên ngày càng mạnh mẽ. Cuối cùng, thái độ thù địch xuất hiện, gây ra hành vi bạo lực và tàn sát. Khi Quả của niềm Sân Giận này chín muồi, chúng sinh phải chị đau đớn trong địa ngục nấu sôi và thiêu cháy.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh trong Sáu Cõi, khi cơn sân giận mãnh liệt khởi sinh, không chối bỏ hay thuận theo nó. Thay vào đó hãy buông xả trong trạng thái tự nhiên và đạt được Tuệ Giác sáng rõ!

Khi Tâm trở nên đầy ngạo mạn, những tư tưởng hơn thua (kiêu mạn) và nhục mạ kẻ khác sẽ khởi sinh. Khi niềm Kiêu Mạn này ngày càng mạnh mẽ hơn, chúng sinh sẽ nếm trải sự đau khổ của những cuộc cãi vã và lăng mạ. Khi Quả của nghiệp này chín muồi, chúng sinh đó sẽ tái sinh vào các cõi Trời và nếm trải nỗi đau khổ của sự thay đổi và đọa lạc vào những cõi tái sinh thấp hơn.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh có Tâm kiêu mạn tăng trưởng, buông xả được ý thức của họ trong trạng thái tự nhiên và có thể duy trì được trạng thái Tỉnh Giác. Nguyện cho họ đạt được Trí Tuệ của Tánh Bình Đẳng!

Do tăng trưởng thói quen phân biệt nhị nguyên, do tự ca ngợi bản thân và chê bai kẻ khác, Tâm đua tranh, tỵ hiềm  dẫn đến sự bùng khởi chiến tranh, và chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi Trời đố kỵ (Asura), nơi chỉ toàn giết chóc và thương tích. Từ Quả của hành vi sát hại, chúng sinh đó sẽ đọa vào cảnh giới Địa Ngục.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh khi khởi lên những tư tưởng tỵ hiềm và ganh đua, không xem những ý niệm này là kẻ thù. Họ chỉ cần buông xả trong thư thái thì ý thức có thể trụ vào trạng thái tự nhiên. Nguyện chúng sinh đạt được Tuệ Giác của hành động không trở ngại!

Do tán Tâm, bất cẩn và thất niệm, chúng sinh trở nên đờ đẫn, mờ tối và đãng trí. Do thiếu ý thức và lười nhác mà vô minh tăng trưởng, và Quả của sự vô minh này là cuộc lang thang bất lực trong cõi Súc Sanh. 

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh đã rơi vào hố đen của vô minh phát tỏa ánh sáng của Chánh Niệm, và nhờ đó đạt được Tuệ Giác vô niệm.
Tất cả chúng sinh trong Tam Giới thực chất giống hệt chư Phật, bởi đều có cùng một Nền Tảng. Nhưng sự lầm lẫn về Nền Tảng khiến cho chúng sinh lạc lối, rồi hành xử không có mục tiêu. Sáu Nghiệp Hành chỉ là ảo ảnh, tựa một giấc mơ. Ta là vị Phật Nguyên Thủy, ở đây để uốn nắn Sáu loại chúng sinh thông qua tất cả những hóa hiện.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh không chừa sót chứng đạt Giác Ngộ trong trong trạng thái của Pháp Giới chân như.

Ah Ho! Trong tương lai, bất cứ khi nào một hành giả có năng lực mạnh mẽ, trong trạng thái Tỉnh-Giác rạng rỡ và không mê lầm, trì tụng bài cầu nguyện đầy oai lực này, thì tất cả chúng sinh nào nghe thấy sẽ đạt được Giác Ngộ trong vòng ba kiếp sống.

Trong kỳ nhật thực hoặc nguyệt thực, trong khi xảy ra động đất hoặc khi quả địa cầu vang rền, vào các ngày lập chí (hạ chí và đông chí) hoặc thời khắc giao thừa, hành giả nên quán tưởng Đức Phổ Hiền và  tụng đọc bài nguyện lớn tiếng để tất cả có thể nghe thấy, thì chúng sinh trong ba cõi sẽ dần được giải thoát khỏi khổ đau. Thông qua lời cầu nguyện của hành giả, cuối cùng, họ sẽ đạt được Giác Ngộ.

Bài nguyện này được trích trong Chương 9 của Những Giáo Huấn về Pháp Đại Toàn Thiện từ Gongpa Zangthal, Những Bảo Tạng Phía Bắc được phát lộ bởi vị Khai Mật Tạng Rigdzin Gödem. Vào ngày Trăng Rằm tháng thứ bảy năm Kim Mùi (1991) theo Tạng lịch, bài cầu nguyện này đã được chuyển sang Anh Ngữ bởi Bậc Đáng Kính Bhaka Tulku Rinpoche tại Berkeley, Californica, với sự trợ giúp của Lunpo Urgyan Thondup. <Link pdf http://www.rigdzindharma.org/uploads/6/9/5/6/6956478/prayer_of_kuntuzangpo.pdf >
 
Lạc Hải Âm (Dechen Yangtso) chuyển Việt Ngữ vào ngày Trăng Non kết thúc tháng Saga Dawa năm Kim Tí (2020) theo Tạng Lịch, trong khoảng thời gian xảy ra Nhật Thực Vành Khuyên tại một số nơi trên địa cầu trong đó có Việt Nam, Nepal, Ấn Độ... Hiệu đính lần cuối ngày 01/11/21. Nguyện mọi sự cát tường!
 
[Mời bạn tải bản pdf tại đây]

Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

Hiểu Đúng về Thiền

Thiền không phải luôn luôn gắn liền với ý nghĩa là ngồi yên ở đâu đó với cặp mắt lim dim. Đó chỉ là một cách hành Thiền. Nó có nghĩa là con đang làm việc với những kinh nghiệm về Không tánh. Nếu thông qua kiểu kinh nghiệm này con phát triển được Trí Tư (khả năng tư duy, suy xét), thì phần thực hành của con may ra mới "thật sự" trở thành Chánh Tư Duy - còn nếu không phải vậy, thì chỉ là con đang duy trì trong trạng thái Rỗng Không hay còn gọi là Shunyata.

...Tư Duy chân chánh và thực thụ nghĩa là sống trong Thực Tại (hoàn cảnh thực tế), một cảnh thực tại không chỉ chứa đựng Không tánh, mà còn gồm cả điều chúng ta gọi là "sự biến chuyển". Vậy nên, nếu một người không có khả năng kết hợp hoặc sống trong sự biến chuyển đó, thì người này còn cách khá xa với thực tại.
Nếu như con thật sự hiểu biết về những giáo huấn của Mật Điển, con sẽ biết cách làm thế nào để "ở trong động" và cũng cùng lúc đó, con duy trì trạng thái Tư Duy. Thế thì, nếu như con nhảy múa suốt ngày, hay tĩnh toạ bất động cả ngày, sẽ chẳng có gì là khác biệt cả. Có lẽ, hành giả nào có thể kết hợp [tu tập] trong động thì có thể sẽ chứng đạt Giác Ngộ nhanh hơn, đây là lý do vì sao mà hành động được áp dụng nhiều hơn trong những giáo huấn Mật Điển. Như con có thể thấy, có sự chuyển động ngay cả trong luồng năng lượng của chính con, vậy nên trong Mật Thừa, phương tiện chuyển hóa đòi hỏi sự kết hợp mọi thứ vào trong nguyên lý trên.
Ta không nói rằng việc kết hợp hay thâm nhập được Trí Tư [đến mức độ như thế] là dễ dàng, nó cần thời gian dài và chẳng dễ dàng một chút nào cả.


~Namkhai Norbu Rinpoche(English Soure: Vajra Wisdom's IG)






Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Tu Tập Nội Bồ Đề Tâm

B.TU TẬP NỘI BỒ ĐỀ TÂM (BỒ ĐỀ TÂM BÊN TRONG)

 

Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Hành giả nên luyện tập thế nào khi phát khởi Bồ Đề Tâm theo con đường bên trong?

Đạo Sư đáp: Theo đó, có mười hai điểm tu tập.

1. CỐT TỦY

Cốt tủy là sự khởi phát ý định giúp đỡ những chúng sinh không nhận biết được rằng: Bản tánh bẩm sinh, thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu), là không do tạo tác.

2. ĐỊNH NGHĨA

Không phụ thuộc vào những hành động “bên ngoài” của Thân hay Khẩu, nó được gọi là “nội” Bồ Đề Tâm vì chỉ được triển khai riêng bởi Tâm con.

3. SỰ PHÂN CHIA

Được phân thành hai: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Nguyện Ước là ước muốn những chúng sanh nào chưa giác ngộ được bản tánh này có thể nhận ra nó. Chỉ ngồi yên và lẩm nhẩm điều này thì chưa đủ; Con phải nỗ lực trong mọi điều kiện để giúp cho tất cả chúng sanh nhận ra nó.

Tsogyal, chừng nào con chưa (tự) giải thoát khỏi sự bám chấp nhị nguyên thì việc Hành Dụng sẽ còn khá khó khăn.

4. NHỮNG TỐ CHẤT CỦA HÀNH GIẢ

Bao hàm những phần giảng giải trước, đặc điểm của hành giả dấn thân vào con đường tu tập này là chỉ dùng những khái niệm tạo tác ở mức độ tối thiểu.

Tsogyal, hãy để cho Tâm con nghỉ ngơi!

5. ĐỐI TƯỢNG ĐỂ THỌ NHẬN

Con cần lãnh thọ từ một Đạo Sư đã chứng ngộ bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã) thông qua sự tu tập Ba Trí (Văn, Tư, Tu), và nhờ đó đã thoát khỏi Tám Mối Bận Tâm Thế Gian.

Tsogyal, một Đạo Sư là thiết yếu để con bước vào cánh cổng của giáo lý Đại Thừa.

6. NGHI LỄ THỌ NHẬN

Hãy tự giải thoát mình khỏi Ba Lớp Ý Niệm (ba phạm vi: đối tượng, chủ thể, hành vi), từ bỏ sự bận tâm đến tất cả các hoạt động thế gian, và như thế, con hãy thỉnh cầu để nhận lấy những hướng dẫn khẩu truyền chân thật.

7. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP

Con sẽ nâng tầm vượt xa trên Tiểu Thừa và những con đường sai lạc. Từ đó, việc thực hành sẽ phát huy hiệu lực giúp con từ bỏ mọi tư duy ích kỷ và chấp thủ nhị nguyên, để rồi con sẽ chứng ngộ bản tánh Vô Ngã.

8. NGUYÊN DO TU TẬP

Nguyên do cần tu tập phát khởi Bồ Đề Tâm theo cách thức từ bên trong là đưa tất cả chúng sanh vào con đường chân thật, đó là bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã).

9. NHỮNG LỖI LẦM KHI KHÔNG TU TẬP

Khuyết điểm khi không tu tập là con sẽ đi lạc khỏi bản tánh Vô Ngã.

Những người bình phàm với Tâm thức chưa có sự chuyển đổi nhờ (cơ sở lý luận của) một trường phái triết học Phật Giáo nào đó, và với đối tượng không liên quan đến Phật Giáo-là những người đã thâm nhập vào một trường phái triết học sai lạc, thì "bản ngã" của họ được xem như là "một con người" kiểm soát và kinh nghiệm Ngũ Uẩn, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới. Hơn nữa, khi cho rằng "bản ngã" này là trường cửu, là vững chắc, họ chấp chặt vào nó, từ đó tạo lập khái niệm "bạn" và "thù", "ta" và "người khác".

Tsogyal, con phải nhổ lên cây cọc của sự chấp thủ.

Mối nguy hiểm của việc khái niệm hóa một "cái Tôi cá nhân" là khi hiểu lầm có một bản ngã và một cái-Tôi-có-thực, thì những đối tượng sẽ xuất hiện như là “thứ gì khác” [biệt lập với cái-Tôi-cá-nhân]. Vì dính mắc vào tư tưởng phân biệt như vậy, con sẽ xem những gì lợi ích cho “cái Tôi” là Bạn, và những gì gây tổn hại cho “cái Tôi” là Thù. Từ đó, những kinh nghiệm của ái luyến và ghét bỏ sẽ khiến con phạm vào nhiều loại hành vi bất thiện. Do những hành động này, con sẽ lang thang trong ba cõi thấp và khắp chốn Luân Hồi.

Tsogyal, nếu không trục xuất Tâm thức độc hại này, con sẽ không tìm được hạnh phúc.

Đối tượng hành giả nào bác bỏ [sự thực có] của "bản ngã"? Nói chung, nó bị bác bỏ bởi tất cả Phật tử. Nói riêng, chư Thanh Văn Giác đặc biệt phá trừ chấp ngã. Dĩ nhiên, những hành giả đã nhập môn Đại Thừa cũng phá bỏ sự chấp thủ vào một cái-Tôi-cá-thể. 

Có lời tuyên bố cho rằng chư Thanh Văn Giác thì chứng ngộ một phần bản chất của hiện tượng và chư vị Độc Giác cũng không chứng ngộ điều đó hoàn toàn. Nghĩa là hàng Thanh Văn khẳng định nhầm lẫn về sự hiện hữu của các yếu tố vật chất (tức chấp thủ Sắc Pháp thực hữu) thay vì cần phải liễu tri rằng bản tánh của mọi hiện tượng (kể cả vật chất và tinh thần - cả Sắc Pháp và Danh Pháp) thảy đều Vô Ngã, còn chư Độc Giác Phật thì lại dính mắc vào sự an trú trong trạng thái tinh túy rỗng lặng của Tâm thay vì thấu suốt thực nghĩa (để lìa bỏ cả trạng thái đó).

Tsogyal, chừng nào con chưa thoát khỏi những tín điều thuộc những trường phái triết học thấp,  con sẽ không lãnh hội được thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu).

Sự nguy hiểm của việc tạo lập nên khái niệm bản thể của hiện tượng là: một khi con đã quyết đoán và chấp chặt vào điều này, con sẽ tạo ra những phiền não. Chính chúng là Nhân dẫn con lang thang trong luân hồi. Cho dù nỗ lực trong bao nhiêu kỳ kiếp [nhưng nếu không ý thức được điều này] thì mọi cố gắng [giải thoát] của con là vô nghĩa. 

Đối tượng hành giả nào bác bỏ bản thể của hiện tượng? Nói chung, tất cả hành giả Đại Thừa đều bác bỏ nó. Nói riêng, sẽ là một tín hiệu xấu nếu như chúng ta đã bước vào cánh cổng Chân Ngôn Bí Mật mà còn chấp thủ thiên kiến, theo đó, những hành giả thuộc Trung Đạo cũng bác bỏ nó.

10. NHỮNG ĐIỂM CẦN TUÂN THỦ.

Con nên tu tập trong nghĩa lý Vô Ngã, điều này có hai loại: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Ba điểm trọng yếu của Nguyện (Ước) phải được dõi sát như sau.

1. Không ngừng thiết lập Nguyện (Ước) với suy nghĩ: Mong rằng tất cả chúng sanh luôn nhận ra lý tánh Vô Ngã.

2. Tu tập ngày ba thời, đêm ba thời trong sự tùy hỷ với người khác là những hành giả đang thiền định về ý nghĩa của Vô Ngã.

3. Luôn tự rèn luyện mình một cách tinh cần [trong nỗ lực] không để bản thân lạc khỏi ý nghĩa của Vô Ngã.

Thứ hai, Hành (Dụng) cần phải dõi sát trong hai khía cạnh thuộc bên trong và bên ngoài.

💎 Bốn sự tu tập bên ngoài là:

1. Không lìa xa Đạo Sư hay người bạn tâm linh đã giảng dạy con ý nghĩa của Vô Ngã cho đến khi con chứng ngộ nó.

2. Buông bỏ thiên kiến liên quan đến nơi chốn cư trú, đất nước hay vùng miền, địa vị chức tước, thù và bạn.

3. Học hỏi, suy tư và thiền định về giáo lý minh giải (giải thích và chứng minh) về Vô Ngã và Không tánh.

4. Không chấp vào tự ngã [và nghĩ rằng có một "cái Tôi"] đang tồn tại vì có danh tính, gia đình, hay thân thể [chắc thật].

💎 Bốn sự tu tập bên trong là:

1. Chớ hiểu rằng những tên gọi [được xã hội gán đặt và sử dụng] là những sự vật thực sự tồn tại, vì mọi nhãn hiệu và tên gọi của sự vật bên ngoài thì không hiện hữu trong Tâm con.

2. Hãy nhận thức rằng mọi thứ tạo lập nên thế giới cùng tất cả chúng sinh trong đó đều vô tự tánh (không có bản thể thực sự), dù có xuất hiện thì cũng chỉ như những giấc mộng và ảo huyễn.

3. Ngày ba thời, đêm ba thời, con hãy tìm cho ra sự bám chấp vào các đối tượng khác nhau của Tâm, dù thực chất chẳng có thứ gì thật sự tồn tại.

4. Giữ mình không lạc khỏi thực nghĩa - vốn không có bất kỳ tên gọi (khái niệm) và những cực đoan nào. Dẫu cho có tìm kiếm Tâm mình, thì nó cũng chẳng thể được tìm thấy như là bất cứ thứ gì.

Đó là những điều tối quan trọng để con tự tinh tấn rèn luyện theo con đường này. Nhờ thực hành theo con đường này, con sẽ trừ diệt được những tâm thức độc hại và dứt bỏ được Luân Hồi.

11. RANH GIỚI GIỮA VIỆC ĐƯỢC VÀ MẤT GIỚI NGUYỆN

Khoảnh khắc lãnh thọ Nội Giới Bồ Đề Tâm (Bồ Đề Tâm bên trong) là khi con nhận được những hướng dẫn khẩu truyền từ Đạo Sư của con.

Lúc mất nguyện là khi con chạy theo những bám chấp nhị nguyên thông thường mà không ý thức về việc bản thể không [thực sự] tồn tại. Ngay lúc bị mất [và nhận ra], hãy áp dụng phương pháp đối trị thật dứt khoát!

12. PHƯƠNG PHÁP PHỤC HỒI GIỚI NGUYỆN HƯ TỔN

Gìn giữ sự tu tập không sao lãng những nghĩa lý vừa giải thích trên, con sẽ tự động tháo cởi đượt nút thắt (sự trói buộc) của [tư tưởng] chấp thủ nhị nguyên.

~ Guru Padmasambhava 

(Trích dịch từ Quyển Giáo Huấn Chư Dakini, NXB Rangjung Yeshe, 1999)

[Mời bạn xem thêm nội dung và tải bản pdf tại đây]


 

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...