Hiển thị các bài đăng có nhãn Luân Hồi vs Niết Bàn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Luân Hồi vs Niết Bàn. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2022

Gốc rễ thực hành Pháp

 


Này!
Những người có vận nghiệp tốt và nhiều may mắn thường sở hữu cuộc sống an nhàn với nhiều cơ hội rộng mở. Đó là những kết quả tương tục đến lúc chín muồi của những mối tương quan ngẫu nhiên trong sự vận hành của nghiệp và những nguyện ước dựa trên lý Nhân Quả.
Những thành quả có được nhờ vào việc gieo trồng trước đây thì đang được tận hưởng ngay bây giờ, nhưng bất cứ niềm vui và nỗi buồn nào có thể xảy đến trong tương lai đều phụ thuộc vào mỗi người.
Những hình thức hiện hữu của cuộc sống, kể cả môi trường sống và bạn bè xung quanh chúng ta, đều giống như giấc mơ đêm qua, và đời sống này vụt qua còn nhanh hơn cả một tia chớp trên bầu trời.
Không có hồi kết cho thứ công việc vô nghĩa này. Thật nực cười nếu ta cứ sửa soạn mọi thứ như thể mình sống mãi mãi!
Bất cứ nơi nào con sinh ra, dù là những cảnh giới cao nhất hay thấp nhất thuộc chốn Luân Hồi, sợi thòng lọng dày chắc của Khổ Đau sẽ trói chặt con.
Thời gian để truy tầm tự do cho bản thân thì ít ỏi như số sao giữa ban ngày, vậy làm sao có thể gọi đó là việc tu hành và thể nào mà chứng đạt giải thoát?
Gốc rễ của tất cả mọi hướng dẫn thực hành và rèn luyện Tâm đều nằm ở việc nhận biết được bản chất của sự hiện hữu. Chẳng có con đường nào khác.

Ta, một lão già lang thang, đã giũ mạnh chiếc túi của người ăn xin, và những điều này đã tuôn ra."

~ Những Lời Pháp Xuẩn Ngốc của Một Gã Khờ Khoác Tấm Áo Lấm Lem Bùn Đất và Lông Thú 
Do Düdjom Lingpa soạn tác
B. Alan Wallace dịch từ Tạng ngữ sang Anh ngữ 
Lạc Hải Âm dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ


"Hey!
Individuals endowed with karma and good fortune have obtained a life of leisure and opportunity due to the assembly and timely ripening of a causal nexus of fortuitous connections of karma and prayers.
The fruits of that which was sown previously are being used up right now, but whatever joys and sorrows the future holds depend on you.
The appearances of this life, including your surroundings and friends, are like last night’s dream, and this life passes more swiftly than a flash of lightning in the sky.
There is no end to this meaningless work. What a joke to prepare to live forever!
Wherever you are born in the heights or depths of saṃsāra, the great noose of suffering will hold you tight.
Acquiring freedom for yourself is as rare as a star in the daytime, so how is it possible to practice and achieve liberation?
The root of all mind training and practical instructions is planted by knowing the nature of existence. There is no other way.
I, an old vagabond, have shaken my beggar’s satchel, and this is what came out."

~ The Foolish Dharma of an Idiot Clothed in Mud and Feathers by Düdjom Lingpa
Translated by B. Alan Wallace



Thứ Ba, 11 tháng 1, 2022

Cốt Lõi của việc hành Thiền



Khi niệm tưởng chuyển động, chỉ cần nhận biết "người đang suy tưởng" thì những niệm tưởng đó sẽ tan biến. Dù những suy nghĩ có liên hệ đến vấn đề gì đi nữa cũng không quan trọng, bởi quá trình suy nghĩ và người đang suy tưởng là rỗng không. Bản thân một ý niệm không do bất kỳ thứ vật chất cụ thể nào tạo tác nên, nó chỉ đơn giản là những luồng chuyển động của những ý niệm rỗng không. Bằng việc nhận biết Không tánh trong một niệm khởi, nó lập tức biến mất giống như bong bóng nước vỡ tan. Đó là cách làm thế nào để lập tức đối phó với bất kỳ ý niệm cụ thể nào đang khởi sinh. Một khi bạn biết cách làm cho niệm tưởng hiện tại tan biến, bất kỳ ý nghĩ nào tiếp tục khởi lên cũng có thể được xử lý chính xác theo cùng cách thức như vậy, nó cũng chỉ là một ý niệm khởi sinh ở khoảnh khắc thực tại. Còn nếu như chúng ta tham gia vào tiến trình suy nghĩ, suy tưởng về những gì đang nghĩ đến, và cứ tiếp tục tiến trình đó thì nó sẽ không có điểm dừng.

Chính do tiến trình suy nghĩ đã thúc đẩy hoặc bức bách chúng ta phải tiếp tục hiện hữu thêm trong Luân Hồi. Khi chúng ta bị dính mắc vào trong những ý nghĩ của riêng mình, cuộc Luân Hồi sẽ không ngừng lại. Mặt khác, bất cứ ý niệm nào cũng đều rỗng Không, nó chẳng hàm chứa thứ vật chất rắn chắc nào trong nó. Điều này rất dễ thấy, bởi vì ngay khoảnh khắc bạn hay biết về tánh Không của Tâm, suy nghĩ biến mất ngay lập tức. Các ý nghĩ tan biến vào trong tính chất rỗng không, vào trong bản chất nền tảng của bạn, chính là Không tánh. Không sót lại bất kỳ một vết tích nào. Đó là cách duy nhất để giải quyết vấn đề. Khi bạn nhận biết được bản chất của mình, những ý niệm bị "hành quyết" ngay tại chỗ: nó hoàn toàn bị xóa sạch.

Luân Hồi được tạo nên khi chúng ta để Tâm hướng ra bên ngoài qua các cánh cửa của năm giác quan. Chúng ta tập trung vào một đối tượng thông qua mắt, hoặc tai, hoặc mũi, lưỡi, thân và rồi tạo tác nên những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng này. Có thể trông có vẻ như là có các loại ý thức khác nhau thông qua các cửa giác quan khác nhau, nhưng thực chất chỉ có một Tâm luân phiên chộp bắt lấy các đối tượng qua các cửa giác quan. Một ví dụ truyền thống minh họa cho việc này là hình ảnh của một con khỉ bị nhốt trong căn phòng trống có năm cửa sổ, nó nhảy nhót xung quanh không ngừng nghỉ và liên tục nhìn ra ngoài qua khung cửa này đến khung cửa khác. Một người đứng quan sát bên ngoài có thể nghĩ rằng có rất nhiều khỉ trong căn phòng đó, nhưng thực tế thì chỉ có một con. Nếu bạn có thể bắt và trói con khỉ đó lại, thì sẽ chẳng có con khỉ nào khác chạy nhảy vòng quanh nữa. Nói cách khác, phương thức để bắt được con khỉ chính là làm cho những suy nghĩ tan biến đi.

Một ví dụ khác là hình ảnh một đám cháy bùng lên ở giữa nhà và khói tuôn ra ngoài qua tất cả các khe hở của ngôi nhà. Nếu bạn tạt một xô nước vào giữa đám cháy, ngọn lửa sẽ lụi tắt, và khói cũng đồng thời biến mất ở mọi phương hướng. 'Khói' là một ví dụ thể hiện cho tính chất rỗng không; cũng giống như những suy nghĩ chỉ là sự hiển bày của Pháp Thân (thân tinh túy). Chính nó không phải Pháp Thân, nhưng nó là một sự hiện hóa từ bản chất nền tảng. Giống như bản chất nền tảng của chúng ta, sự hóa hiện này cũng không hàm chứa bất cứ thứ vật chất rắn chắc nào.

Việc thuyết giảng trọng yếu không bao giờ chỉ để nhận biết được Tâm phân biệt. Bởi điều đó là những gì mà tất cả chúng sinh đang làm trong mọi lúc - để ý vào những cảm xúc và suy nghĩ rồi hành xử theo chúng. Những chỉ dẫn cho việc hành Thiền không phải là để kéo dài mãi mãi công việc này, nó không chỉ để thấy ra được Tâm phân biệt, những niệm tưởng phân biệt. Mà hơn thế, những chỉ dẫn là để nhận ra được bản chất của Tâm thức. Đây là điểm khác biệt vô cùng quan trọng. Việc một người bị dính mắc vào trong suy nghĩ và hành xử dựa trên những cảm xúc chính là nguyên nhân tạo ra vòng Luân Hồi bất tận. Đây là kết quả của việc bị dính mắc vào trong những hiện tượng huyễn hóa mà không hiểu biết được bản chất của chúng là gì.


~ Tulku Urgyen Rinpoche


When a thought moves, simply recognise the thinker. The thinking then dissolves. No matter what the thought is about, the thinking and the thinker are empty. A thought in itself is not made of any concrete substance; it is simply an empty thought movement. By recognising the empty essence in a thought, it vanishes like a bubble in water. That is how to deal with any particular present thought at hand. Once you know how to let the present thought dissolve, any subsequent thought can be dealt with in exactly the same way, as simply another present thought. But if we get involved in the thought, thinking of what is being thought of, and continue it, then there is no end.

It is our thinking that propels us or forces us into further samsaric existence. As long as we get caught up in our own thinking, samsara doesn’t stop. On the other hand, any thought is an empty thought, in that it has no concrete substance to it whatsoever. It is very easy to no­tice this, because the moment you recognise mind essence, the thought dissolves right there. The thought vanishes into your empty essence, into your basic nature which is emptiness. There is no remnant whatso­ever. That is the only way to solve the problem. When recognising your essence, the thought is executed on the spot; it is totally obliterated.

Samsara is created when we let our mind extrovert through the five senses. We focus on an object through our eyes, or through the ears, or the nose, and make thoughts and emotions about this object. It may seem like we have different consciousnesses through the different senses, but actually it is one mind that alternately grabs at objects through the various senses. The traditional example for this is of a monkey in an empty room with five windows, restlessly jumping around and looking out through one window after the other. An out­side observer might think there are a lot of monkeys in that room, but in fact there is only one. If you catch hold of that monkey and tie it up, there is no jumping around any more. In other words, the way to cap­ture the monkey is by dissolving the thought.

Another example is of a fireplace in the middle of the house, with smoke coming out through all the openings. If you throw a bucket of water in the middle, the flames are extinguished, and the smoke si­multaneously disappears in all directions. ‘Smoke’ is an example for the expression of the essence; just as thoughts are the expression of dharmakaya [essence body]. They are not dharmakaya itself, but they are a manifestation of our basic nature. Just like our basic nature, this manifestation has no concrete substance to it.

The essential teaching is never to just recognise dualistic mind. That is what all sentient beings are doing all the time—noticing their feel­ings and thoughts, and then acting upon them. The meditation in­struction is not to perpetuate that; it is more than simply recognising dualistic mind, dualistic thinking. Rather, it is to recognise the essence of this mind. That is the crucial difference. Being caught up in one’s thoughts and acting upon these feelings is the cause of endless samsara. This is being caught up in the expression and not knowing the essence itself.


~ Tulku Urgyen Rinpoche

Thứ Năm, 4 tháng 11, 2021

Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền

 

Bài Nguyện của Đức Phổ Hiền - Đức Phật Nguyên Thủy Samantabhadra


 

Ho! Tất cả mọi thứ – hình tướng và hiện hữu, Luân Hồi và Niết Bàn, mang một nền tảng duy nhất, nhưng có hai Con Đường dẫn đến hai Kết Quả, và hiển bày một cách kỳ diệu thành Tỉnh-Thức hoặc Không-Tỉnh-Thức.

Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh đều đạt thành Phật Quả, viên mãn toàn hảo, an trú nơi cõi Pháp Giới chân như. Nền Tảng của mọi hiện tượng không do tạo tác, là không gian quảng đại vô biên tự sinh khởi, vượt ngoài sức diễn đạt, không mang danh tự Luân Hồi hay Niết Bàn. Chỉ Giác Ngộ được điều này, thì con là một vị Phật; nếu không trực nhận được nó, con là một chúng sinh lang thang trong Luân Hồi.

Ta cầu nguyện tất cả chúng sinh trong Tam Giới có thể giác ngộ được nghĩa lý chân thật của Nền Tảng không thể diễn bày này.

Ta, Phổ Hiền, đã Giác Ngộ chân lý của Nền Tảng này, vượt thoát mọi Nhân Duyên, đó chỉ là Giác Tánh tự-sinh-khởi. Nó không bị nhiễm ô bởi những biểu hiện bên ngoài và ý niệm bên trong, bởi sự khẳng định hay phủ định, và không bị nhơ bẩn bởi màn đêm của Tâm thất Niệm. Như thế, sự hiển bày tự-hiện-hóa này không có những lầm lỗi.

Ta, Phổ Hiền, trú trong sự Tỉnh-Thức nội tại. Dù Tam Giới bị hủy diệt, cũng không có sợ hãi. Không có sự bám luyến vào những Dục Lạc của Năm giác quan. Trong Tánh biết tự-sinh-khởi, giải thoát mọi ý niệm, không có hình tướng nào chắc thật, kể cả Ngũ Độc. 

Trong trạng thái Tỉnh-Thức liên tục sáng rõ, tinh túy là bất nhị, vẫn hiện khởi sự phô diễn của Ngũ Trí. Khi Ngũ Trí chín muồi, Ngũ Bộ Phật Nguyên Thủy hiện lên, và thông qua sự triển khai mở rộng Trí Tuệ của chư vị, 42 vị Phật an bình xuất hiện. Khi sức mạnh của Ngũ Trí phát sinh, 60 Heruka phẫn nộ sẽ hóa hiện. Như vậy, Nền Tảng của sự Tỉnh-Thức không bao giờ nhầm lẫn hay sai lệch.

Ta, Phổ Hiền, là Phật khởi nguyên của tất thảy, và qua lời cầu nguyện này của ta, nguyện cho tất cả chúng sinh lang thang trong Tam Giới Luân Hồi trực nhận được Giác Tánh tự-sinh-khởi, và nguyện cho Tuệ Giác vĩ đại của họ cũng tự nhiên tăng trưởng.

Hàng tỷ hóa thân của ta sẽ liên tục xuất hiện theo vô số cách không thể nghĩ bàn, xuất hiện trong nhiều hình tướng để trợ giúp những chúng sinh cần được rèn luyện. Ngay từ ban đầu, chúng sinh đều bị mê lầm bởi đã không nhận ra được Giác Tánh Nền Tảng.

Như vậy, sống bằng Tâm thất Niệm trước những gì xảy ra chính là Mê Lầm – trạng thái Không-Tỉnh-Giác và là nguyên nhân của sự lạc lối. Từ trạng thái Mê Lầm này kéo đến cơn bất tỉnh đột ngột làm kích khởi nỗi sợ hãi chao động trong tầng ý thức vi tế.

Từ cơn chao động đó, nảy sinh khái niệm phân biệt về “ta” và nhận thức “chúng sinh khác” như là “kẻ đối nghịch”. Dần dần, xu hướng phân biệt này càng mạnh mẽ hơn, và từ đây, vòng Luân Hồi bắt đầu.

Tiếp đến, những cảm xúc của Ngũ Độc phát triển – những hành xử từ các cảm xúc đó chẳng bao giờ kết thúc. Chúng sinh sống mà không có Tỉnh Thức do mất Chánh Niệm, và đây là căn bản cho việc họ lạc đường.

Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh nhận ra được Giác Tánh nội tại! Sự Không-Tỉnh-Giác vốn do Tâm Thất Niệm và Xao Lãng. Để cho Thất Niệm xảy ra nghĩa là đưa vào những ý niệm phân biệt nhị nguyên giữa “ta” và “chúng sinh khác”. Cả hai trường hợp Thất Niệm này là những cơ sở cho sự mê lầm của tất cả chúng sinh.
Thông qua lời cầu nguyện của ta, Phổ Hiền, nguyện tất cả chúng sinh lang thang trong luân hồi sẽ xóa tan màn sương mù tối của sự Thất Niệm, xóa tan những ý niệm bám chấp nhị nguyên!

Nguyện tất cả chúng sinh trực nhận được sự Tỉnh Thức nội tại của chính mình! Các tư tưởng nhị nguyên tạo nên Nghi Hoặc, do những bám chấp vi tế vào những tư tưởng nhị nguyên này khiến cho khuynh hướng Tâm phân biệt càng trở nên mạnh mẽ và sâu dày hơn. Thực phẩm, của cải, y phục, nhà cửa và bạn bè, Năm đối tượng của các giác quan và gia đình thân yêu - tất cả những thứ này gây ra sự đau khổ bằng cách tạo ra niềm khát khao và dục vọng. Đây là tất cả những mê lầm trần tục; là những hoạt động của sự tham lam và bám chấp bất tận. Khi Quả của sự Tham Luyến chín muồi, chúng sinh sẽ tái sinh làm Quỷ Đói, chịu dày vò bởi sự thèm muốn và dục vọng, khốn khổ của đói và khát.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh nào mang dục vọng và ham muốn do những bám chấp, không chối bỏ ham muốn dục vọng, cũng không thuận theo những tham luyến trước các dục. Hãy để ý thức buông thư trong trạng thái thái tự nhiên của chính nó, sau đó sẽ có thể duy trì được sự Tỉnh-Thức. Nguyện cho chúng sinh đạt được Tuệ Giác sáng suốt toàn hảo!

Khi các đối tượng bên ngoài xuất hiện, ý thức vi tế của sự nỗi sợ sẽ sinh khởi. Từ nỗi sợ hãi này, tập khí sân giận trở nên ngày càng mạnh mẽ. Cuối cùng, thái độ thù địch xuất hiện, gây ra hành vi bạo lực và tàn sát. Khi Quả của niềm Sân Giận này chín muồi, chúng sinh phải chị đau đớn trong địa ngục nấu sôi và thiêu cháy.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh trong Sáu Cõi, khi cơn sân giận mãnh liệt khởi sinh, không chối bỏ hay thuận theo nó. Thay vào đó hãy buông xả trong trạng thái tự nhiên và đạt được Tuệ Giác sáng rõ!

Khi Tâm trở nên đầy ngạo mạn, những tư tưởng hơn thua (kiêu mạn) và nhục mạ kẻ khác sẽ khởi sinh. Khi niềm Kiêu Mạn này ngày càng mạnh mẽ hơn, chúng sinh sẽ nếm trải sự đau khổ của những cuộc cãi vã và lăng mạ. Khi Quả của nghiệp này chín muồi, chúng sinh đó sẽ tái sinh vào các cõi Trời và nếm trải nỗi đau khổ của sự thay đổi và đọa lạc vào những cõi tái sinh thấp hơn.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh có Tâm kiêu mạn tăng trưởng, buông xả được ý thức của họ trong trạng thái tự nhiên và có thể duy trì được trạng thái Tỉnh Giác. Nguyện cho họ đạt được Trí Tuệ của Tánh Bình Đẳng!

Do tăng trưởng thói quen phân biệt nhị nguyên, do tự ca ngợi bản thân và chê bai kẻ khác, Tâm đua tranh, tỵ hiềm  dẫn đến sự bùng khởi chiến tranh, và chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi Trời đố kỵ (Asura), nơi chỉ toàn giết chóc và thương tích. Từ Quả của hành vi sát hại, chúng sinh đó sẽ đọa vào cảnh giới Địa Ngục.
Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho những chúng sinh khi khởi lên những tư tưởng tỵ hiềm và ganh đua, không xem những ý niệm này là kẻ thù. Họ chỉ cần buông xả trong thư thái thì ý thức có thể trụ vào trạng thái tự nhiên. Nguyện chúng sinh đạt được Tuệ Giác của hành động không trở ngại!

Do tán Tâm, bất cẩn và thất niệm, chúng sinh trở nên đờ đẫn, mờ tối và đãng trí. Do thiếu ý thức và lười nhác mà vô minh tăng trưởng, và Quả của sự vô minh này là cuộc lang thang bất lực trong cõi Súc Sanh. 

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh đã rơi vào hố đen của vô minh phát tỏa ánh sáng của Chánh Niệm, và nhờ đó đạt được Tuệ Giác vô niệm.
Tất cả chúng sinh trong Tam Giới thực chất giống hệt chư Phật, bởi đều có cùng một Nền Tảng. Nhưng sự lầm lẫn về Nền Tảng khiến cho chúng sinh lạc lối, rồi hành xử không có mục tiêu. Sáu Nghiệp Hành chỉ là ảo ảnh, tựa một giấc mơ. Ta là vị Phật Nguyên Thủy, ở đây để uốn nắn Sáu loại chúng sinh thông qua tất cả những hóa hiện.

Thông qua lời cầu nguyện của Ta, Phổ Hiền, nguyện cho tất cả chúng sinh không chừa sót chứng đạt Giác Ngộ trong trong trạng thái của Pháp Giới chân như.

Ah Ho! Trong tương lai, bất cứ khi nào một hành giả có năng lực mạnh mẽ, trong trạng thái Tỉnh-Giác rạng rỡ và không mê lầm, trì tụng bài cầu nguyện đầy oai lực này, thì tất cả chúng sinh nào nghe thấy sẽ đạt được Giác Ngộ trong vòng ba kiếp sống.

Trong kỳ nhật thực hoặc nguyệt thực, trong khi xảy ra động đất hoặc khi quả địa cầu vang rền, vào các ngày lập chí (hạ chí và đông chí) hoặc thời khắc giao thừa, hành giả nên quán tưởng Đức Phổ Hiền và  tụng đọc bài nguyện lớn tiếng để tất cả có thể nghe thấy, thì chúng sinh trong ba cõi sẽ dần được giải thoát khỏi khổ đau. Thông qua lời cầu nguyện của hành giả, cuối cùng, họ sẽ đạt được Giác Ngộ.

Bài nguyện này được trích trong Chương 9 của Những Giáo Huấn về Pháp Đại Toàn Thiện từ Gongpa Zangthal, Những Bảo Tạng Phía Bắc được phát lộ bởi vị Khai Mật Tạng Rigdzin Gödem. Vào ngày Trăng Rằm tháng thứ bảy năm Kim Mùi (1991) theo Tạng lịch, bài cầu nguyện này đã được chuyển sang Anh Ngữ bởi Bậc Đáng Kính Bhaka Tulku Rinpoche tại Berkeley, Californica, với sự trợ giúp của Lunpo Urgyan Thondup. <Link pdf http://www.rigdzindharma.org/uploads/6/9/5/6/6956478/prayer_of_kuntuzangpo.pdf >
 
Lạc Hải Âm (Dechen Yangtso) chuyển Việt Ngữ vào ngày Trăng Non kết thúc tháng Saga Dawa năm Kim Tí (2020) theo Tạng Lịch, trong khoảng thời gian xảy ra Nhật Thực Vành Khuyên tại một số nơi trên địa cầu trong đó có Việt Nam, Nepal, Ấn Độ... Hiệu đính lần cuối ngày 01/11/21. Nguyện mọi sự cát tường!
 
[Mời bạn tải bản pdf tại đây]

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...