Hiển thị các bài đăng có nhãn Chánh Tri Kiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chánh Tri Kiến. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Phật Giáo Là Gì và Không Phải Là Gì?


 
Người ta thường hỏi tôi rằng: "Tóm gọn lại thì Phật Giáo là gì?" Hoặc họ hỏi, "Cái nhìn cụ thể hay tư tưởng Triết học riêng của Phật Giáo là gì?"

Thật không may cho phương Tây, tại đây, Phật Giáo dường như đã đổ bộ vào trong giới hạn của các thứ Tôn Giáo, ngay cả trong phạm vi tự-lực hoặc lãnh vực tự-cải-tiến, và rõ ràng là nó đang tồn tại trong xu hướng thuộc lĩnh vực Thiền tập. Tôi muốn đưa ra lời thách thức trong việc xác lập một định nghĩa phổ biến về việc tu Thiền của Phật Giáo.

Nhiều người nghĩ rằng Thiền là hành động gì đó phải tiến hành với sự thư giãn, với việc ngắm nhìn cảnh hoàng hôn hoặc những con sóng ở bãi biển. Những cụm từ thật duyên dáng như "buông xả" và "sống thảnh thơi" thường xuất hiện trong Tâm. Theo quan điểm nhìn nhận của Phật Giáo thì việc hành Thiền cần một chút gì đó nhiều hơn như vậy.

Đầu tiên, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải xác định bối cảnh thật sự của Thiền Phật Giáo. Điều này được gọi là Tri Kiến, Thiền Tập và Hành Động; nếu gộp chung lại với nhau thì sự phối hợp của Kiến-Thiền-Hành là một cách khá khéo léo để thấu hiểu về Đạo lộ (con đường dẫn đến Giải Thoát). Mặc dù chúng ta không thể sử dụng cách biểu đạt như vậy trong cuộc sống hàng ngày, nhưng nếu suy nghĩ về nó thì chúng ta luôn luôn có thể hành xử đúng theo hình thái Kiến-Thiền-Hành. Ví dụ, nếu muốn mua một chiếc xe hơi, chúng ta sẽ chọn chiếc nào mình nghĩ là tốt nhất, đáng tin cậy nhất và v.v... Vậy thì, "Tri Kiến" trong trường hợp này là ý tưởng, hoặc là niềm tin rằng chúng ta sẽ có một chiếc xe tốt. Tiếp đến, "Thiền Tập" là việc suy tư và làm quen dần với ý tưởng đó, và "Hành Động" là việc chúng ta thật sự mua chiếc xe, lái xe và sử dụng nó. Quá trình này không nhất thiết phải là một điều gì đó liên quan đến Phật Giáo, nó là việc mà chúng ta luôn tiến hành vào mọi thời điểm. Bạn không cần phải gọi nó là Tri Kiến, Thiền Tập và Hành Động. Bạn có thể nghĩ về nó như là "ý tưởng" khởi đầu, "làm quen" với ý tưởng và thật sự "đạt được" như ý tưởng ấy.

Vậy thì Tri Kiến cụ thể mà một Phật tử cần cố gắng trở nên quen thuộc là gì? - Phật Giáo được phân biệt và nhận dạng bởi bốn tính chất, hay còn gọi là "bốn dấu ấn". Thực chất, nếu như tất cả bốn dấu ấn này được tìm thấy trong một con đường (Đạo lộ) hoặc một Triết lý nào đó, thì việc gọi tên nó là Phật Giáo hay không chẳng còn quan trọng nữa. Bạn có thể gọi nó bằng bất cứ tên gì bạn thích; những từ ngữ như "Phật tử" hoặc "Phật Giáo" không còn quan trọng. Điểm chính yếu là nếu như Đạo lộ nào có chứa bốn dấu ấn này, nó có thể được xem là con đường của Đức Phật.

Do vậy, bốn đặc điểm có tên gọi là "Bốn Pháp Ấn", bao gồm:

Tất cả mọi thứ được chắp ghép nên đều Vô Thường.

Tất cả các cảm xúc đều Khổ Đau. Đây là điều mà chỉ có Phật tử mới đề cập đến. Nhiều Tôn Giáo tôn thờ tình yêu thương với những ngày lễ kỷ niệm cùng các bài Thánh ca. Nhưng Phật tử thì nghĩ rằng, "Những điều đó cũng chỉ toàn là Đau Khổ".

Tất cả mọi hiện tượng đều có bản chất là Không; chúng vốn không thật sự tồn tại. Điều này thực chất là Tri Kiến rốt ráo của Phật Giáo, ba điều kia lấy Pháp Ấn thứ ba này làm nền tảng.

Pháp Ấn thứ tư là Niết Bàn vượt ra ngoài mọi Cực Đoan.

Nếu không có bốn Pháp Ấn này, con đường của Phật Giáo sẽ trở thành hữu thần, chấp chứa những giáo điều tín ngưỡng, và toàn bộ mục đích của Phật Giáo cũng sẽ bị mất đi. Mặt khác, bạn có thể gặp một huấn luyện viên lướt ván, người này có thể chỉ dẫn cho bạn những giáo lý về cách thức ngồi ngắm hoàng hôn trên bãi biển: nếu những gì ông ấy nói hàm chứa tất cả bốn Pháp Ấn, nó sẽ là Phật Giáo. Những người Tây Tạng, Trung Quốc, hoặc Nhật bản có thể không thích sự thật này, nhưng việc thuyết giảng Phật Pháp thì không nhất thiết chỉ gói gọn trong một hình thức liên quan đến "truyền thống". Bốn Pháp Ấn khá tương quan với nhau, rồi bạn sẽ hiểu rõ hơn khi tham khảo những nội dung tiếp theo.

Mời quí vị tải và đọc đầy đủ nội dung tại đây

Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021

Chánh Niệm: Chiếc Gương của Tâm

Kính lễ Chánh Niệm tự sinh khởi, 
Chánh Niệm như bậc Đế Vương tối thắng! 



 
Ta là Gương Chánh niệm, 
Sáng rõ hiển bày sự Cẩn Trọng và Chánh Niệm. 
Hãy nhìn, hỡi các Kim Cương hữu! 
Nhìn vào ta, Chánh Niệm được hỗ trợ. 

Lúc này, hãy khẩn cầu Tam Bảo, 
Bất khả phân với vị Thầy - Bổn Sư!  

Không phóng tán, hãy nhìn vào bản chất của Tâm! 

Chánh Niệm là gốc rễ Giáo Pháp, 
Chánh Niệm là thực hành chính của Đạo lộ, 
Chánh Niệm làm thành trì vững chắc cho Tâm, 
Chánh Niệm làm trợ lực cho Trí Tuệ của Giác Tánh tự-hay-biết,
Chánh Niệm là thứ hỗ trợ cho Đại Ấn, Đại Toàn Thiện và Trung Quán. 

Thiếu Chánh Niệm, chúng ta bị những trở lực tiêu cực khắc chế. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta bị kiềm tỏa bởi thói biếng lười. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta phạm phải những sai lầm. 
Thiếu Chánh Niệm, chúng ta thất bại trong việc hoàn thành những mục tiêu nhắm đến. 

Thất Niệm - giống như một đống phân! 
Thất Niệm - giống như cá giãy trên nền đất!
Thất niệm - giống như một cái xác không hồn!
 
Hãy làm cho Chánh Niệm được vững chắc, này các bạn ta! 

Nương vào những ý định chân thành của những vị Thầy cao quý, 
Nguyện cho chúng ta ngay tức thời trực nhận được Chánh Niệm chân thật của mình! 

Yêu cầu này, là một sự hối thúc để ghi nhớ Chánh Niệm, dành tặng cho những người bạn Đạo nào đã có được Pháp nhãn.
Soạn tác bởi một Tăng sĩ tệ hại mang tên Jamyang Dorje, 
Là kẻ thực sự chỉ giống như một con trâu già rụng răng.

Nguyện mọi sự cát tường! 


~Nyoshul Khen Rinpoche


Adam Pearcey chuyển dịch từ tiếng Tạng sang Anh ngữ năm 2013.
Lạc Hải Âm (Dechen Yangtso) chuyển dịch từ Anh sang Việt Ngữ ngày 01/11/2021.

(Eng Soure: Uncle Thubten Kway's FB)

Mindfulness: The Mirror of the Mind


Homage to naturally arising, king-like mindfulness!

I am the mirror of mindfulness,
Clearly revealing carefulness and mindfulness.
Look, my vajra friends!
Seeing me, mindfulness is supported.

Pray now to the Three Jewels,
Inseparable from the Lama-Guru!

Undistractedly, look into the essence of mind!

Mindfulness is the root of the Dharma,
Mindfulness is the path’s main practice,
Mindfulness is a fortress for the mind,
Mindfulness is an aid to the wisdom of self-knowing rigpa,
Mindfulness is a support for Mahāmudrā, Dzogchen and Madhyamaka.

Lacking mindfulness, we’re overcome by negative forces.
Lacking mindfulness, we’re beset by laziness.
Lacking mindfulness, we commit every wrong.
Lacking mindfulness, we fail to accomplish our aims.

Mindlessness—it’s like a pile of shit!
Mindlessness—it’s like fishing on dry land!
Mindlessness—it’s like a heartless corpse!

Make your mindfulness secure, my friends!

Through the heartfelt intentions of the precious teachers,
May we come now to recognize our own true mindfulness!

This request, a spur to remember mindfulness,
Was offered to friends who possess the eyes of Dharma
By the terrible monk called Jamyang Dorje,
Who is really just a buck-toothed ox.

Sarva mangalam!

~Nyoshul Khen Rinpoche

Translated by Adam Pearcey, 2013

(Eng Soure: Uncle Thubten Kway's FB)

Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

Móc Chánh Niệm

Một người bị mắc dính vào cái móc thì không có quyền lựa chọn mà luôn phải đi đến bất cứ nơi nào anh ta bị dẫn kéo. Tương tự như thế, nếu chúng ta bắt giữ được Tâm - thứ luôn có nguy cơ bị điên đảo trước những đối tượng của Sáu giác quan - với cái móc của Chánh Niệm, với sự cảnh giác và thận trọng, sẽ đem lại lợi ích vô cùng to lớn. Chúng ta nên sử dụng người gác cổng này để liên tục kiểm tra xem có bao nhiêu những niệm tưởng tích cực, tiêu cực và những hành động được chúng ta tạo tác trong ngày. Một khi chúng ta đã có thể kiểm soát được Tâm nhờ Chánh Niệm, mọi thứ xuất hiện nơi Luân Hồi và Niết Bàn trở thành phương tiện trợ giúp cho sự thực hành và đem lại lợi ích trong việc xác chứng ý nghĩa của những giáo lý [đã được lãnh thọ]. Tất cả mọi hình tướng được hiểu như là hiện hữu của Pháp Thân. Chúng ta nhận thức mọi thứ trong sự "thanh tịnh tự nhiên" của chúng, và không có thứ gì chúng ta có thể cho là "bất tịnh" được.

~ Dilgo Khyentse Rinpoche (Trích từ Quyển "Chúc thư của Zurchungpa")

(Eng Soure: Heart of Buddhism - Kindness's IG)
 

 

Hiểu Đúng về Thiền

Thiền không phải luôn luôn gắn liền với ý nghĩa là ngồi yên ở đâu đó với cặp mắt lim dim. Đó chỉ là một cách hành Thiền. Nó có nghĩa là con đang làm việc với những kinh nghiệm về Không tánh. Nếu thông qua kiểu kinh nghiệm này con phát triển được Trí Tư (khả năng tư duy, suy xét), thì phần thực hành của con may ra mới "thật sự" trở thành Chánh Tư Duy - còn nếu không phải vậy, thì chỉ là con đang duy trì trong trạng thái Rỗng Không hay còn gọi là Shunyata.

...Tư Duy chân chánh và thực thụ nghĩa là sống trong Thực Tại (hoàn cảnh thực tế), một cảnh thực tại không chỉ chứa đựng Không tánh, mà còn gồm cả điều chúng ta gọi là "sự biến chuyển". Vậy nên, nếu một người không có khả năng kết hợp hoặc sống trong sự biến chuyển đó, thì người này còn cách khá xa với thực tại.
Nếu như con thật sự hiểu biết về những giáo huấn của Mật Điển, con sẽ biết cách làm thế nào để "ở trong động" và cũng cùng lúc đó, con duy trì trạng thái Tư Duy. Thế thì, nếu như con nhảy múa suốt ngày, hay tĩnh toạ bất động cả ngày, sẽ chẳng có gì là khác biệt cả. Có lẽ, hành giả nào có thể kết hợp [tu tập] trong động thì có thể sẽ chứng đạt Giác Ngộ nhanh hơn, đây là lý do vì sao mà hành động được áp dụng nhiều hơn trong những giáo huấn Mật Điển. Như con có thể thấy, có sự chuyển động ngay cả trong luồng năng lượng của chính con, vậy nên trong Mật Thừa, phương tiện chuyển hóa đòi hỏi sự kết hợp mọi thứ vào trong nguyên lý trên.
Ta không nói rằng việc kết hợp hay thâm nhập được Trí Tư [đến mức độ như thế] là dễ dàng, nó cần thời gian dài và chẳng dễ dàng một chút nào cả.


~Namkhai Norbu Rinpoche(English Soure: Vajra Wisdom's IG)






Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Tu Tập Nội Bồ Đề Tâm

B.TU TẬP NỘI BỒ ĐỀ TÂM (BỒ ĐỀ TÂM BÊN TRONG)

 

Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Hành giả nên luyện tập thế nào khi phát khởi Bồ Đề Tâm theo con đường bên trong?

Đạo Sư đáp: Theo đó, có mười hai điểm tu tập.

1. CỐT TỦY

Cốt tủy là sự khởi phát ý định giúp đỡ những chúng sinh không nhận biết được rằng: Bản tánh bẩm sinh, thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu), là không do tạo tác.

2. ĐỊNH NGHĨA

Không phụ thuộc vào những hành động “bên ngoài” của Thân hay Khẩu, nó được gọi là “nội” Bồ Đề Tâm vì chỉ được triển khai riêng bởi Tâm con.

3. SỰ PHÂN CHIA

Được phân thành hai: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Nguyện Ước là ước muốn những chúng sanh nào chưa giác ngộ được bản tánh này có thể nhận ra nó. Chỉ ngồi yên và lẩm nhẩm điều này thì chưa đủ; Con phải nỗ lực trong mọi điều kiện để giúp cho tất cả chúng sanh nhận ra nó.

Tsogyal, chừng nào con chưa (tự) giải thoát khỏi sự bám chấp nhị nguyên thì việc Hành Dụng sẽ còn khá khó khăn.

4. NHỮNG TỐ CHẤT CỦA HÀNH GIẢ

Bao hàm những phần giảng giải trước, đặc điểm của hành giả dấn thân vào con đường tu tập này là chỉ dùng những khái niệm tạo tác ở mức độ tối thiểu.

Tsogyal, hãy để cho Tâm con nghỉ ngơi!

5. ĐỐI TƯỢNG ĐỂ THỌ NHẬN

Con cần lãnh thọ từ một Đạo Sư đã chứng ngộ bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã) thông qua sự tu tập Ba Trí (Văn, Tư, Tu), và nhờ đó đã thoát khỏi Tám Mối Bận Tâm Thế Gian.

Tsogyal, một Đạo Sư là thiết yếu để con bước vào cánh cổng của giáo lý Đại Thừa.

6. NGHI LỄ THỌ NHẬN

Hãy tự giải thoát mình khỏi Ba Lớp Ý Niệm (ba phạm vi: đối tượng, chủ thể, hành vi), từ bỏ sự bận tâm đến tất cả các hoạt động thế gian, và như thế, con hãy thỉnh cầu để nhận lấy những hướng dẫn khẩu truyền chân thật.

7. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP

Con sẽ nâng tầm vượt xa trên Tiểu Thừa và những con đường sai lạc. Từ đó, việc thực hành sẽ phát huy hiệu lực giúp con từ bỏ mọi tư duy ích kỷ và chấp thủ nhị nguyên, để rồi con sẽ chứng ngộ bản tánh Vô Ngã.

8. NGUYÊN DO TU TẬP

Nguyên do cần tu tập phát khởi Bồ Đề Tâm theo cách thức từ bên trong là đưa tất cả chúng sanh vào con đường chân thật, đó là bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã).

9. NHỮNG LỖI LẦM KHI KHÔNG TU TẬP

Khuyết điểm khi không tu tập là con sẽ đi lạc khỏi bản tánh Vô Ngã.

Những người bình phàm với Tâm thức chưa có sự chuyển đổi nhờ (cơ sở lý luận của) một trường phái triết học Phật Giáo nào đó, và với đối tượng không liên quan đến Phật Giáo-là những người đã thâm nhập vào một trường phái triết học sai lạc, thì "bản ngã" của họ được xem như là "một con người" kiểm soát và kinh nghiệm Ngũ Uẩn, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới. Hơn nữa, khi cho rằng "bản ngã" này là trường cửu, là vững chắc, họ chấp chặt vào nó, từ đó tạo lập khái niệm "bạn" và "thù", "ta" và "người khác".

Tsogyal, con phải nhổ lên cây cọc của sự chấp thủ.

Mối nguy hiểm của việc khái niệm hóa một "cái Tôi cá nhân" là khi hiểu lầm có một bản ngã và một cái-Tôi-có-thực, thì những đối tượng sẽ xuất hiện như là “thứ gì khác” [biệt lập với cái-Tôi-cá-nhân]. Vì dính mắc vào tư tưởng phân biệt như vậy, con sẽ xem những gì lợi ích cho “cái Tôi” là Bạn, và những gì gây tổn hại cho “cái Tôi” là Thù. Từ đó, những kinh nghiệm của ái luyến và ghét bỏ sẽ khiến con phạm vào nhiều loại hành vi bất thiện. Do những hành động này, con sẽ lang thang trong ba cõi thấp và khắp chốn Luân Hồi.

Tsogyal, nếu không trục xuất Tâm thức độc hại này, con sẽ không tìm được hạnh phúc.

Đối tượng hành giả nào bác bỏ [sự thực có] của "bản ngã"? Nói chung, nó bị bác bỏ bởi tất cả Phật tử. Nói riêng, chư Thanh Văn Giác đặc biệt phá trừ chấp ngã. Dĩ nhiên, những hành giả đã nhập môn Đại Thừa cũng phá bỏ sự chấp thủ vào một cái-Tôi-cá-thể. 

Có lời tuyên bố cho rằng chư Thanh Văn Giác thì chứng ngộ một phần bản chất của hiện tượng và chư vị Độc Giác cũng không chứng ngộ điều đó hoàn toàn. Nghĩa là hàng Thanh Văn khẳng định nhầm lẫn về sự hiện hữu của các yếu tố vật chất (tức chấp thủ Sắc Pháp thực hữu) thay vì cần phải liễu tri rằng bản tánh của mọi hiện tượng (kể cả vật chất và tinh thần - cả Sắc Pháp và Danh Pháp) thảy đều Vô Ngã, còn chư Độc Giác Phật thì lại dính mắc vào sự an trú trong trạng thái tinh túy rỗng lặng của Tâm thay vì thấu suốt thực nghĩa (để lìa bỏ cả trạng thái đó).

Tsogyal, chừng nào con chưa thoát khỏi những tín điều thuộc những trường phái triết học thấp,  con sẽ không lãnh hội được thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu).

Sự nguy hiểm của việc tạo lập nên khái niệm bản thể của hiện tượng là: một khi con đã quyết đoán và chấp chặt vào điều này, con sẽ tạo ra những phiền não. Chính chúng là Nhân dẫn con lang thang trong luân hồi. Cho dù nỗ lực trong bao nhiêu kỳ kiếp [nhưng nếu không ý thức được điều này] thì mọi cố gắng [giải thoát] của con là vô nghĩa. 

Đối tượng hành giả nào bác bỏ bản thể của hiện tượng? Nói chung, tất cả hành giả Đại Thừa đều bác bỏ nó. Nói riêng, sẽ là một tín hiệu xấu nếu như chúng ta đã bước vào cánh cổng Chân Ngôn Bí Mật mà còn chấp thủ thiên kiến, theo đó, những hành giả thuộc Trung Đạo cũng bác bỏ nó.

10. NHỮNG ĐIỂM CẦN TUÂN THỦ.

Con nên tu tập trong nghĩa lý Vô Ngã, điều này có hai loại: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Ba điểm trọng yếu của Nguyện (Ước) phải được dõi sát như sau.

1. Không ngừng thiết lập Nguyện (Ước) với suy nghĩ: Mong rằng tất cả chúng sanh luôn nhận ra lý tánh Vô Ngã.

2. Tu tập ngày ba thời, đêm ba thời trong sự tùy hỷ với người khác là những hành giả đang thiền định về ý nghĩa của Vô Ngã.

3. Luôn tự rèn luyện mình một cách tinh cần [trong nỗ lực] không để bản thân lạc khỏi ý nghĩa của Vô Ngã.

Thứ hai, Hành (Dụng) cần phải dõi sát trong hai khía cạnh thuộc bên trong và bên ngoài.

💎 Bốn sự tu tập bên ngoài là:

1. Không lìa xa Đạo Sư hay người bạn tâm linh đã giảng dạy con ý nghĩa của Vô Ngã cho đến khi con chứng ngộ nó.

2. Buông bỏ thiên kiến liên quan đến nơi chốn cư trú, đất nước hay vùng miền, địa vị chức tước, thù và bạn.

3. Học hỏi, suy tư và thiền định về giáo lý minh giải (giải thích và chứng minh) về Vô Ngã và Không tánh.

4. Không chấp vào tự ngã [và nghĩ rằng có một "cái Tôi"] đang tồn tại vì có danh tính, gia đình, hay thân thể [chắc thật].

💎 Bốn sự tu tập bên trong là:

1. Chớ hiểu rằng những tên gọi [được xã hội gán đặt và sử dụng] là những sự vật thực sự tồn tại, vì mọi nhãn hiệu và tên gọi của sự vật bên ngoài thì không hiện hữu trong Tâm con.

2. Hãy nhận thức rằng mọi thứ tạo lập nên thế giới cùng tất cả chúng sinh trong đó đều vô tự tánh (không có bản thể thực sự), dù có xuất hiện thì cũng chỉ như những giấc mộng và ảo huyễn.

3. Ngày ba thời, đêm ba thời, con hãy tìm cho ra sự bám chấp vào các đối tượng khác nhau của Tâm, dù thực chất chẳng có thứ gì thật sự tồn tại.

4. Giữ mình không lạc khỏi thực nghĩa - vốn không có bất kỳ tên gọi (khái niệm) và những cực đoan nào. Dẫu cho có tìm kiếm Tâm mình, thì nó cũng chẳng thể được tìm thấy như là bất cứ thứ gì.

Đó là những điều tối quan trọng để con tự tinh tấn rèn luyện theo con đường này. Nhờ thực hành theo con đường này, con sẽ trừ diệt được những tâm thức độc hại và dứt bỏ được Luân Hồi.

11. RANH GIỚI GIỮA VIỆC ĐƯỢC VÀ MẤT GIỚI NGUYỆN

Khoảnh khắc lãnh thọ Nội Giới Bồ Đề Tâm (Bồ Đề Tâm bên trong) là khi con nhận được những hướng dẫn khẩu truyền từ Đạo Sư của con.

Lúc mất nguyện là khi con chạy theo những bám chấp nhị nguyên thông thường mà không ý thức về việc bản thể không [thực sự] tồn tại. Ngay lúc bị mất [và nhận ra], hãy áp dụng phương pháp đối trị thật dứt khoát!

12. PHƯƠNG PHÁP PHỤC HỒI GIỚI NGUYỆN HƯ TỔN

Gìn giữ sự tu tập không sao lãng những nghĩa lý vừa giải thích trên, con sẽ tự động tháo cởi đượt nút thắt (sự trói buộc) của [tư tưởng] chấp thủ nhị nguyên.

~ Guru Padmasambhava 

(Trích dịch từ Quyển Giáo Huấn Chư Dakini, NXB Rangjung Yeshe, 1999)

[Mời bạn xem thêm nội dung và tải bản pdf tại đây]


 

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...