Hiển thị các bài đăng có nhãn Vô Ngã Tánh - Tánh Không. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vô Ngã Tánh - Tánh Không. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 26 tháng 1, 2022

Sương

Đủ duyên giọt nước về nguồn,
Chưa thì đủng đỉnh làm sương giao mùa!
Sáo trời rộn khúc mua vui,
Dạ lan vẫn nở ngọt bùi mỗi đêm,
Đủ duyên trăng ghé bên thềm,
Cuối đêm sao mọc êm đềm sớm mai.
Giọt sương và nước chẳng hai,
Và mây và biển, hình hài như nhiên,
Bao la trải khắp mọi miền,
Không Sinh - Không Tử tịch nhiên bốn mùa.


~ Lạc Hải Âm
HL 26/01/22

Thứ Ba, 11 tháng 1, 2022

Cốt Lõi của việc hành Thiền



Khi niệm tưởng chuyển động, chỉ cần nhận biết "người đang suy tưởng" thì những niệm tưởng đó sẽ tan biến. Dù những suy nghĩ có liên hệ đến vấn đề gì đi nữa cũng không quan trọng, bởi quá trình suy nghĩ và người đang suy tưởng là rỗng không. Bản thân một ý niệm không do bất kỳ thứ vật chất cụ thể nào tạo tác nên, nó chỉ đơn giản là những luồng chuyển động của những ý niệm rỗng không. Bằng việc nhận biết Không tánh trong một niệm khởi, nó lập tức biến mất giống như bong bóng nước vỡ tan. Đó là cách làm thế nào để lập tức đối phó với bất kỳ ý niệm cụ thể nào đang khởi sinh. Một khi bạn biết cách làm cho niệm tưởng hiện tại tan biến, bất kỳ ý nghĩ nào tiếp tục khởi lên cũng có thể được xử lý chính xác theo cùng cách thức như vậy, nó cũng chỉ là một ý niệm khởi sinh ở khoảnh khắc thực tại. Còn nếu như chúng ta tham gia vào tiến trình suy nghĩ, suy tưởng về những gì đang nghĩ đến, và cứ tiếp tục tiến trình đó thì nó sẽ không có điểm dừng.

Chính do tiến trình suy nghĩ đã thúc đẩy hoặc bức bách chúng ta phải tiếp tục hiện hữu thêm trong Luân Hồi. Khi chúng ta bị dính mắc vào trong những ý nghĩ của riêng mình, cuộc Luân Hồi sẽ không ngừng lại. Mặt khác, bất cứ ý niệm nào cũng đều rỗng Không, nó chẳng hàm chứa thứ vật chất rắn chắc nào trong nó. Điều này rất dễ thấy, bởi vì ngay khoảnh khắc bạn hay biết về tánh Không của Tâm, suy nghĩ biến mất ngay lập tức. Các ý nghĩ tan biến vào trong tính chất rỗng không, vào trong bản chất nền tảng của bạn, chính là Không tánh. Không sót lại bất kỳ một vết tích nào. Đó là cách duy nhất để giải quyết vấn đề. Khi bạn nhận biết được bản chất của mình, những ý niệm bị "hành quyết" ngay tại chỗ: nó hoàn toàn bị xóa sạch.

Luân Hồi được tạo nên khi chúng ta để Tâm hướng ra bên ngoài qua các cánh cửa của năm giác quan. Chúng ta tập trung vào một đối tượng thông qua mắt, hoặc tai, hoặc mũi, lưỡi, thân và rồi tạo tác nên những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng này. Có thể trông có vẻ như là có các loại ý thức khác nhau thông qua các cửa giác quan khác nhau, nhưng thực chất chỉ có một Tâm luân phiên chộp bắt lấy các đối tượng qua các cửa giác quan. Một ví dụ truyền thống minh họa cho việc này là hình ảnh của một con khỉ bị nhốt trong căn phòng trống có năm cửa sổ, nó nhảy nhót xung quanh không ngừng nghỉ và liên tục nhìn ra ngoài qua khung cửa này đến khung cửa khác. Một người đứng quan sát bên ngoài có thể nghĩ rằng có rất nhiều khỉ trong căn phòng đó, nhưng thực tế thì chỉ có một con. Nếu bạn có thể bắt và trói con khỉ đó lại, thì sẽ chẳng có con khỉ nào khác chạy nhảy vòng quanh nữa. Nói cách khác, phương thức để bắt được con khỉ chính là làm cho những suy nghĩ tan biến đi.

Một ví dụ khác là hình ảnh một đám cháy bùng lên ở giữa nhà và khói tuôn ra ngoài qua tất cả các khe hở của ngôi nhà. Nếu bạn tạt một xô nước vào giữa đám cháy, ngọn lửa sẽ lụi tắt, và khói cũng đồng thời biến mất ở mọi phương hướng. 'Khói' là một ví dụ thể hiện cho tính chất rỗng không; cũng giống như những suy nghĩ chỉ là sự hiển bày của Pháp Thân (thân tinh túy). Chính nó không phải Pháp Thân, nhưng nó là một sự hiện hóa từ bản chất nền tảng. Giống như bản chất nền tảng của chúng ta, sự hóa hiện này cũng không hàm chứa bất cứ thứ vật chất rắn chắc nào.

Việc thuyết giảng trọng yếu không bao giờ chỉ để nhận biết được Tâm phân biệt. Bởi điều đó là những gì mà tất cả chúng sinh đang làm trong mọi lúc - để ý vào những cảm xúc và suy nghĩ rồi hành xử theo chúng. Những chỉ dẫn cho việc hành Thiền không phải là để kéo dài mãi mãi công việc này, nó không chỉ để thấy ra được Tâm phân biệt, những niệm tưởng phân biệt. Mà hơn thế, những chỉ dẫn là để nhận ra được bản chất của Tâm thức. Đây là điểm khác biệt vô cùng quan trọng. Việc một người bị dính mắc vào trong suy nghĩ và hành xử dựa trên những cảm xúc chính là nguyên nhân tạo ra vòng Luân Hồi bất tận. Đây là kết quả của việc bị dính mắc vào trong những hiện tượng huyễn hóa mà không hiểu biết được bản chất của chúng là gì.


~ Tulku Urgyen Rinpoche


When a thought moves, simply recognise the thinker. The thinking then dissolves. No matter what the thought is about, the thinking and the thinker are empty. A thought in itself is not made of any concrete substance; it is simply an empty thought movement. By recognising the empty essence in a thought, it vanishes like a bubble in water. That is how to deal with any particular present thought at hand. Once you know how to let the present thought dissolve, any subsequent thought can be dealt with in exactly the same way, as simply another present thought. But if we get involved in the thought, thinking of what is being thought of, and continue it, then there is no end.

It is our thinking that propels us or forces us into further samsaric existence. As long as we get caught up in our own thinking, samsara doesn’t stop. On the other hand, any thought is an empty thought, in that it has no concrete substance to it whatsoever. It is very easy to no­tice this, because the moment you recognise mind essence, the thought dissolves right there. The thought vanishes into your empty essence, into your basic nature which is emptiness. There is no remnant whatso­ever. That is the only way to solve the problem. When recognising your essence, the thought is executed on the spot; it is totally obliterated.

Samsara is created when we let our mind extrovert through the five senses. We focus on an object through our eyes, or through the ears, or the nose, and make thoughts and emotions about this object. It may seem like we have different consciousnesses through the different senses, but actually it is one mind that alternately grabs at objects through the various senses. The traditional example for this is of a monkey in an empty room with five windows, restlessly jumping around and looking out through one window after the other. An out­side observer might think there are a lot of monkeys in that room, but in fact there is only one. If you catch hold of that monkey and tie it up, there is no jumping around any more. In other words, the way to cap­ture the monkey is by dissolving the thought.

Another example is of a fireplace in the middle of the house, with smoke coming out through all the openings. If you throw a bucket of water in the middle, the flames are extinguished, and the smoke si­multaneously disappears in all directions. ‘Smoke’ is an example for the expression of the essence; just as thoughts are the expression of dharmakaya [essence body]. They are not dharmakaya itself, but they are a manifestation of our basic nature. Just like our basic nature, this manifestation has no concrete substance to it.

The essential teaching is never to just recognise dualistic mind. That is what all sentient beings are doing all the time—noticing their feel­ings and thoughts, and then acting upon them. The meditation in­struction is not to perpetuate that; it is more than simply recognising dualistic mind, dualistic thinking. Rather, it is to recognise the essence of this mind. That is the crucial difference. Being caught up in one’s thoughts and acting upon these feelings is the cause of endless samsara. This is being caught up in the expression and not knowing the essence itself.


~ Tulku Urgyen Rinpoche

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Tánh Không và Nghiệp Lý


Nói chung, chúng ta không nên nghĩ rằng bằng việc phát triển sự thấu hiểu về Tánh không, bản chất tối hậu của thực tại, chúng ta sẽ chạm đến cảnh giới hoàn toàn rỗng không, trong đó không còn Nghiệp, không còn hình tướng, không có bất cứ gì cả. Sự trống không như vậy không hề tồn tại. Nếu khảo sát về việc sinh khởi của hiện tượng, chúng ta sẽ tiến đến kết luận rằng không phải là không có một hiện tượng nào sinh khởi, mà thực chất là không có một hiện tượng nào rắn chắc và có thật được sinh ra.
Điều này hoàn toàn thích đáng với lý thuyết về Nghiệp Quả, vì nếu như có một đối tượng chắc đặc được sinh ra mà không hàm chứa trong nó Không tánh, thì quy luật Nghiệp Quả cũng không thể vận hành. Vì nếu như có một Nhân riêng biệt, cụ thể nào đó có mặt và Quả của nó tự động sinh ra; với kết quả đã tự động sinh khởi như vậy, một Nhân sẽ không thể cho Quả trong kỳ hạn lâu xa, ví dụ, Quả ở những kiếp vị lai. Vậy nên, nguyên lý về Không tánh không bác bỏ, mà lại củng cố cho Nghiệp lý. Khi chúng ta có được sự thấu suốt về bản chất thật sự, cách thức thật sự của hiện tượng là, thì chúng ta không chối bỏ quy luật về Nghiệp, mặt khác, chúng ta đạt được một niềm tin vững chắc vào Nghiệp lý vì nó được tánh Không bổ trợ.
Lấy thí dụ về việc soi gương. Nếu thật có gì đó từ khuôn mặt con dịch chuyển sang tấm gương, nếu như khuôn mặt thật của con phải nhập vào trong tấm gương trước khi con có thể thấy được hình ảnh phản chiếu, thì hình ảnh phản chiếu của con sẽ không thể xuất hiện trên nhiều mặt gương. Tuy nhiên, khi có những điều kiện thích hợp, những hình ảnh phản chiếu hiện lên gương mà không thật có một sự kết nối sẵn nào giữa nguyên nhân (khuôn mặt con) và kết quả (ảnh phản chiếu).
Nhờ vào tánh Không trong mối liên hệ giữa Nhân, những Duyên (điều kiện) thứ yếu, và Quả nên Nghiệp chúng ta tạo tác trong đời này mới có khả năng trổ Quả ở một thời điểm xa xôi nào đó trong một kiếp sống vị lai.


~ Khenchen Thrangu Rinpoche


(Eng Source: Padmamalla's IG)

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Buông Bỏ Vọng Tưởng


 
Tĩnh tọa với việc tạo ra thêm những ý nghĩ phán xét khi nhận diện được những khía cạnh cụ thể nào đó của Tâm thì không phải là con đang hành Thiền. Đó là những hoạt động của trí năng. Thực tế, chẳng có bất kỳ thứ gì để Thiền; và cũng chẳng có quá trình Thiền nào cả. Nhưng con đừng dung thứ cho những khoảnh khắc phóng Tâm. Việc lang thang khỏi trạng thái Tâm tự-giác-biết mới chính là vọng tưởng, vì thế đừng xao lãng! Bất kỳ ý niệm nào khởi lên, cứ để chúng hiện khởi, nhưng đừng theo đuổi chúng và cũng đừng ngăn chận chúng.
Vậy điều gì cần được thực hiện? Bất kỳ thông tin nào của đối tượng được tiếp nhận từ các cửa giác quan hiện khởi, chúng chỉ là sự xuất hiện của các hình thái, không phải để bám chấp vào chúng mà thay vào đó, con hãy an trú vào kinh nghiệm tươi mới nguyên sơ, giống như một đứa trẻ đi loanh quanh để nhìn ngắm một ngôi đền kỳ diệu mà không dừng trú lại bất kỳ chỗ nào. Tất cả những khoảnh khắc thuộc về hiện tượng của Tâm ở ngay đúng vị trí của chúng, hình thái của chúng không bị bóp méo, màu sắc của chúng không bị thay đổi, vẻ đẹp của chúng được để nguyên vẹn. Hơn nữa, nhờ việc giữ cho những thông tin ghi dấu nơi các cửa giác quan được tinh nguyên, không bị pha trộn với sự Tham muốn và những niệm tưởng Bám Chấp, nên tất cả những hình thái ảo huyễn do Tâm hiện khởi đều là trạng thái giác biết rõ ràng và vô phân biệt của tánh Không sáng tỏ.

Một số hành giả với căn cơ thấp có thể cảm thấy bối rối trước những giáo lý "thâm sâu và quảng đại", và nếu như Thầy có thể cô đọng nội dung ấy thành một lời khai thị có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho họ, Thầy sẽ nói rằng: Khoảng trống của sự dừng nghỉ giữa một niệm và sự khởi sinh của niệm kế tiếp chính là khoảnh khắc bất biến của Ý Thức hiện tiền (tại-đây-và-bây-giờ), chẳng phải đó là sự giác biết trọn vẹn và rõ ràng sao? Ho! Đó chắc chắn chính là thực tại thuần khiết! Và vì con không thể an trú trong không gian của sự hay biết như thị thuần khiết, nên một niệm sinh khởi là chuyện khó tránh khỏi, đúng không? Niệm tưởng đó là sự biểu hiển sáng tạo của thực tại thuần khiết! Nếu con thất bại trong việc nhận biết ý niệm ngay khi nó sinh khởi, nó sẽ sản sinh ra thêm những suy nghĩ phán xét lang thang bất định, có thể gọi tên là "chuỗi ảo vọng" và đây chính là căn nguyên của Luân Hồi. Khi con nhận biết được ý niệm lúc nó mới bắt đầu khởi và chỉ để nguyên như vậy mà không chạy theo nó, thì bất kỳ ý niệm nào sinh khởi cũng đều lập tức được giải phóng vào trong thực tại thuần khiết của Pháp Thân.


~ Dudjom Rinpoche

Phật Giáo Là Gì và Không Phải Là Gì?


 
Người ta thường hỏi tôi rằng: "Tóm gọn lại thì Phật Giáo là gì?" Hoặc họ hỏi, "Cái nhìn cụ thể hay tư tưởng Triết học riêng của Phật Giáo là gì?"

Thật không may cho phương Tây, tại đây, Phật Giáo dường như đã đổ bộ vào trong giới hạn của các thứ Tôn Giáo, ngay cả trong phạm vi tự-lực hoặc lãnh vực tự-cải-tiến, và rõ ràng là nó đang tồn tại trong xu hướng thuộc lĩnh vực Thiền tập. Tôi muốn đưa ra lời thách thức trong việc xác lập một định nghĩa phổ biến về việc tu Thiền của Phật Giáo.

Nhiều người nghĩ rằng Thiền là hành động gì đó phải tiến hành với sự thư giãn, với việc ngắm nhìn cảnh hoàng hôn hoặc những con sóng ở bãi biển. Những cụm từ thật duyên dáng như "buông xả" và "sống thảnh thơi" thường xuất hiện trong Tâm. Theo quan điểm nhìn nhận của Phật Giáo thì việc hành Thiền cần một chút gì đó nhiều hơn như vậy.

Đầu tiên, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải xác định bối cảnh thật sự của Thiền Phật Giáo. Điều này được gọi là Tri Kiến, Thiền Tập và Hành Động; nếu gộp chung lại với nhau thì sự phối hợp của Kiến-Thiền-Hành là một cách khá khéo léo để thấu hiểu về Đạo lộ (con đường dẫn đến Giải Thoát). Mặc dù chúng ta không thể sử dụng cách biểu đạt như vậy trong cuộc sống hàng ngày, nhưng nếu suy nghĩ về nó thì chúng ta luôn luôn có thể hành xử đúng theo hình thái Kiến-Thiền-Hành. Ví dụ, nếu muốn mua một chiếc xe hơi, chúng ta sẽ chọn chiếc nào mình nghĩ là tốt nhất, đáng tin cậy nhất và v.v... Vậy thì, "Tri Kiến" trong trường hợp này là ý tưởng, hoặc là niềm tin rằng chúng ta sẽ có một chiếc xe tốt. Tiếp đến, "Thiền Tập" là việc suy tư và làm quen dần với ý tưởng đó, và "Hành Động" là việc chúng ta thật sự mua chiếc xe, lái xe và sử dụng nó. Quá trình này không nhất thiết phải là một điều gì đó liên quan đến Phật Giáo, nó là việc mà chúng ta luôn tiến hành vào mọi thời điểm. Bạn không cần phải gọi nó là Tri Kiến, Thiền Tập và Hành Động. Bạn có thể nghĩ về nó như là "ý tưởng" khởi đầu, "làm quen" với ý tưởng và thật sự "đạt được" như ý tưởng ấy.

Vậy thì Tri Kiến cụ thể mà một Phật tử cần cố gắng trở nên quen thuộc là gì? - Phật Giáo được phân biệt và nhận dạng bởi bốn tính chất, hay còn gọi là "bốn dấu ấn". Thực chất, nếu như tất cả bốn dấu ấn này được tìm thấy trong một con đường (Đạo lộ) hoặc một Triết lý nào đó, thì việc gọi tên nó là Phật Giáo hay không chẳng còn quan trọng nữa. Bạn có thể gọi nó bằng bất cứ tên gì bạn thích; những từ ngữ như "Phật tử" hoặc "Phật Giáo" không còn quan trọng. Điểm chính yếu là nếu như Đạo lộ nào có chứa bốn dấu ấn này, nó có thể được xem là con đường của Đức Phật.

Do vậy, bốn đặc điểm có tên gọi là "Bốn Pháp Ấn", bao gồm:

Tất cả mọi thứ được chắp ghép nên đều Vô Thường.

Tất cả các cảm xúc đều Khổ Đau. Đây là điều mà chỉ có Phật tử mới đề cập đến. Nhiều Tôn Giáo tôn thờ tình yêu thương với những ngày lễ kỷ niệm cùng các bài Thánh ca. Nhưng Phật tử thì nghĩ rằng, "Những điều đó cũng chỉ toàn là Đau Khổ".

Tất cả mọi hiện tượng đều có bản chất là Không; chúng vốn không thật sự tồn tại. Điều này thực chất là Tri Kiến rốt ráo của Phật Giáo, ba điều kia lấy Pháp Ấn thứ ba này làm nền tảng.

Pháp Ấn thứ tư là Niết Bàn vượt ra ngoài mọi Cực Đoan.

Nếu không có bốn Pháp Ấn này, con đường của Phật Giáo sẽ trở thành hữu thần, chấp chứa những giáo điều tín ngưỡng, và toàn bộ mục đích của Phật Giáo cũng sẽ bị mất đi. Mặt khác, bạn có thể gặp một huấn luyện viên lướt ván, người này có thể chỉ dẫn cho bạn những giáo lý về cách thức ngồi ngắm hoàng hôn trên bãi biển: nếu những gì ông ấy nói hàm chứa tất cả bốn Pháp Ấn, nó sẽ là Phật Giáo. Những người Tây Tạng, Trung Quốc, hoặc Nhật bản có thể không thích sự thật này, nhưng việc thuyết giảng Phật Pháp thì không nhất thiết chỉ gói gọn trong một hình thức liên quan đến "truyền thống". Bốn Pháp Ấn khá tương quan với nhau, rồi bạn sẽ hiểu rõ hơn khi tham khảo những nội dung tiếp theo.

Mời quí vị tải và đọc đầy đủ nội dung tại đây

Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Tu Tập Nội Bồ Đề Tâm

B.TU TẬP NỘI BỒ ĐỀ TÂM (BỒ ĐỀ TÂM BÊN TRONG)

 

Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Hành giả nên luyện tập thế nào khi phát khởi Bồ Đề Tâm theo con đường bên trong?

Đạo Sư đáp: Theo đó, có mười hai điểm tu tập.

1. CỐT TỦY

Cốt tủy là sự khởi phát ý định giúp đỡ những chúng sinh không nhận biết được rằng: Bản tánh bẩm sinh, thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu), là không do tạo tác.

2. ĐỊNH NGHĨA

Không phụ thuộc vào những hành động “bên ngoài” của Thân hay Khẩu, nó được gọi là “nội” Bồ Đề Tâm vì chỉ được triển khai riêng bởi Tâm con.

3. SỰ PHÂN CHIA

Được phân thành hai: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Nguyện Ước là ước muốn những chúng sanh nào chưa giác ngộ được bản tánh này có thể nhận ra nó. Chỉ ngồi yên và lẩm nhẩm điều này thì chưa đủ; Con phải nỗ lực trong mọi điều kiện để giúp cho tất cả chúng sanh nhận ra nó.

Tsogyal, chừng nào con chưa (tự) giải thoát khỏi sự bám chấp nhị nguyên thì việc Hành Dụng sẽ còn khá khó khăn.

4. NHỮNG TỐ CHẤT CỦA HÀNH GIẢ

Bao hàm những phần giảng giải trước, đặc điểm của hành giả dấn thân vào con đường tu tập này là chỉ dùng những khái niệm tạo tác ở mức độ tối thiểu.

Tsogyal, hãy để cho Tâm con nghỉ ngơi!

5. ĐỐI TƯỢNG ĐỂ THỌ NHẬN

Con cần lãnh thọ từ một Đạo Sư đã chứng ngộ bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã) thông qua sự tu tập Ba Trí (Văn, Tư, Tu), và nhờ đó đã thoát khỏi Tám Mối Bận Tâm Thế Gian.

Tsogyal, một Đạo Sư là thiết yếu để con bước vào cánh cổng của giáo lý Đại Thừa.

6. NGHI LỄ THỌ NHẬN

Hãy tự giải thoát mình khỏi Ba Lớp Ý Niệm (ba phạm vi: đối tượng, chủ thể, hành vi), từ bỏ sự bận tâm đến tất cả các hoạt động thế gian, và như thế, con hãy thỉnh cầu để nhận lấy những hướng dẫn khẩu truyền chân thật.

7. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP

Con sẽ nâng tầm vượt xa trên Tiểu Thừa và những con đường sai lạc. Từ đó, việc thực hành sẽ phát huy hiệu lực giúp con từ bỏ mọi tư duy ích kỷ và chấp thủ nhị nguyên, để rồi con sẽ chứng ngộ bản tánh Vô Ngã.

8. NGUYÊN DO TU TẬP

Nguyên do cần tu tập phát khởi Bồ Đề Tâm theo cách thức từ bên trong là đưa tất cả chúng sanh vào con đường chân thật, đó là bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã).

9. NHỮNG LỖI LẦM KHI KHÔNG TU TẬP

Khuyết điểm khi không tu tập là con sẽ đi lạc khỏi bản tánh Vô Ngã.

Những người bình phàm với Tâm thức chưa có sự chuyển đổi nhờ (cơ sở lý luận của) một trường phái triết học Phật Giáo nào đó, và với đối tượng không liên quan đến Phật Giáo-là những người đã thâm nhập vào một trường phái triết học sai lạc, thì "bản ngã" của họ được xem như là "một con người" kiểm soát và kinh nghiệm Ngũ Uẩn, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới. Hơn nữa, khi cho rằng "bản ngã" này là trường cửu, là vững chắc, họ chấp chặt vào nó, từ đó tạo lập khái niệm "bạn" và "thù", "ta" và "người khác".

Tsogyal, con phải nhổ lên cây cọc của sự chấp thủ.

Mối nguy hiểm của việc khái niệm hóa một "cái Tôi cá nhân" là khi hiểu lầm có một bản ngã và một cái-Tôi-có-thực, thì những đối tượng sẽ xuất hiện như là “thứ gì khác” [biệt lập với cái-Tôi-cá-nhân]. Vì dính mắc vào tư tưởng phân biệt như vậy, con sẽ xem những gì lợi ích cho “cái Tôi” là Bạn, và những gì gây tổn hại cho “cái Tôi” là Thù. Từ đó, những kinh nghiệm của ái luyến và ghét bỏ sẽ khiến con phạm vào nhiều loại hành vi bất thiện. Do những hành động này, con sẽ lang thang trong ba cõi thấp và khắp chốn Luân Hồi.

Tsogyal, nếu không trục xuất Tâm thức độc hại này, con sẽ không tìm được hạnh phúc.

Đối tượng hành giả nào bác bỏ [sự thực có] của "bản ngã"? Nói chung, nó bị bác bỏ bởi tất cả Phật tử. Nói riêng, chư Thanh Văn Giác đặc biệt phá trừ chấp ngã. Dĩ nhiên, những hành giả đã nhập môn Đại Thừa cũng phá bỏ sự chấp thủ vào một cái-Tôi-cá-thể. 

Có lời tuyên bố cho rằng chư Thanh Văn Giác thì chứng ngộ một phần bản chất của hiện tượng và chư vị Độc Giác cũng không chứng ngộ điều đó hoàn toàn. Nghĩa là hàng Thanh Văn khẳng định nhầm lẫn về sự hiện hữu của các yếu tố vật chất (tức chấp thủ Sắc Pháp thực hữu) thay vì cần phải liễu tri rằng bản tánh của mọi hiện tượng (kể cả vật chất và tinh thần - cả Sắc Pháp và Danh Pháp) thảy đều Vô Ngã, còn chư Độc Giác Phật thì lại dính mắc vào sự an trú trong trạng thái tinh túy rỗng lặng của Tâm thay vì thấu suốt thực nghĩa (để lìa bỏ cả trạng thái đó).

Tsogyal, chừng nào con chưa thoát khỏi những tín điều thuộc những trường phái triết học thấp,  con sẽ không lãnh hội được thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu).

Sự nguy hiểm của việc tạo lập nên khái niệm bản thể của hiện tượng là: một khi con đã quyết đoán và chấp chặt vào điều này, con sẽ tạo ra những phiền não. Chính chúng là Nhân dẫn con lang thang trong luân hồi. Cho dù nỗ lực trong bao nhiêu kỳ kiếp [nhưng nếu không ý thức được điều này] thì mọi cố gắng [giải thoát] của con là vô nghĩa. 

Đối tượng hành giả nào bác bỏ bản thể của hiện tượng? Nói chung, tất cả hành giả Đại Thừa đều bác bỏ nó. Nói riêng, sẽ là một tín hiệu xấu nếu như chúng ta đã bước vào cánh cổng Chân Ngôn Bí Mật mà còn chấp thủ thiên kiến, theo đó, những hành giả thuộc Trung Đạo cũng bác bỏ nó.

10. NHỮNG ĐIỂM CẦN TUÂN THỦ.

Con nên tu tập trong nghĩa lý Vô Ngã, điều này có hai loại: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Ba điểm trọng yếu của Nguyện (Ước) phải được dõi sát như sau.

1. Không ngừng thiết lập Nguyện (Ước) với suy nghĩ: Mong rằng tất cả chúng sanh luôn nhận ra lý tánh Vô Ngã.

2. Tu tập ngày ba thời, đêm ba thời trong sự tùy hỷ với người khác là những hành giả đang thiền định về ý nghĩa của Vô Ngã.

3. Luôn tự rèn luyện mình một cách tinh cần [trong nỗ lực] không để bản thân lạc khỏi ý nghĩa của Vô Ngã.

Thứ hai, Hành (Dụng) cần phải dõi sát trong hai khía cạnh thuộc bên trong và bên ngoài.

💎 Bốn sự tu tập bên ngoài là:

1. Không lìa xa Đạo Sư hay người bạn tâm linh đã giảng dạy con ý nghĩa của Vô Ngã cho đến khi con chứng ngộ nó.

2. Buông bỏ thiên kiến liên quan đến nơi chốn cư trú, đất nước hay vùng miền, địa vị chức tước, thù và bạn.

3. Học hỏi, suy tư và thiền định về giáo lý minh giải (giải thích và chứng minh) về Vô Ngã và Không tánh.

4. Không chấp vào tự ngã [và nghĩ rằng có một "cái Tôi"] đang tồn tại vì có danh tính, gia đình, hay thân thể [chắc thật].

💎 Bốn sự tu tập bên trong là:

1. Chớ hiểu rằng những tên gọi [được xã hội gán đặt và sử dụng] là những sự vật thực sự tồn tại, vì mọi nhãn hiệu và tên gọi của sự vật bên ngoài thì không hiện hữu trong Tâm con.

2. Hãy nhận thức rằng mọi thứ tạo lập nên thế giới cùng tất cả chúng sinh trong đó đều vô tự tánh (không có bản thể thực sự), dù có xuất hiện thì cũng chỉ như những giấc mộng và ảo huyễn.

3. Ngày ba thời, đêm ba thời, con hãy tìm cho ra sự bám chấp vào các đối tượng khác nhau của Tâm, dù thực chất chẳng có thứ gì thật sự tồn tại.

4. Giữ mình không lạc khỏi thực nghĩa - vốn không có bất kỳ tên gọi (khái niệm) và những cực đoan nào. Dẫu cho có tìm kiếm Tâm mình, thì nó cũng chẳng thể được tìm thấy như là bất cứ thứ gì.

Đó là những điều tối quan trọng để con tự tinh tấn rèn luyện theo con đường này. Nhờ thực hành theo con đường này, con sẽ trừ diệt được những tâm thức độc hại và dứt bỏ được Luân Hồi.

11. RANH GIỚI GIỮA VIỆC ĐƯỢC VÀ MẤT GIỚI NGUYỆN

Khoảnh khắc lãnh thọ Nội Giới Bồ Đề Tâm (Bồ Đề Tâm bên trong) là khi con nhận được những hướng dẫn khẩu truyền từ Đạo Sư của con.

Lúc mất nguyện là khi con chạy theo những bám chấp nhị nguyên thông thường mà không ý thức về việc bản thể không [thực sự] tồn tại. Ngay lúc bị mất [và nhận ra], hãy áp dụng phương pháp đối trị thật dứt khoát!

12. PHƯƠNG PHÁP PHỤC HỒI GIỚI NGUYỆN HƯ TỔN

Gìn giữ sự tu tập không sao lãng những nghĩa lý vừa giải thích trên, con sẽ tự động tháo cởi đượt nút thắt (sự trói buộc) của [tư tưởng] chấp thủ nhị nguyên.

~ Guru Padmasambhava 

(Trích dịch từ Quyển Giáo Huấn Chư Dakini, NXB Rangjung Yeshe, 1999)

[Mời bạn xem thêm nội dung và tải bản pdf tại đây]


 

Thứ Năm, 28 tháng 10, 2021

Nền Tảng Giác Ngộ

 

Điểm khác biệt giữa chư Phật và chúng sinh là chúng sinh luôn "bận rộn chế tác". Sự "thức tỉnh vốn có" nơi chúng ta lại trở nên biến đổi và giả dối. Nó trở thành [thứ gì đó] được tạo tác. Và nếu cứ tiếp tục như thế càng lâu bao nhiêu thì chúng ta sẽ lang thang trong Luân Hồi lâu bấy nhiêu. Thay vào đó, chúng ta cần giác ngộ bản tánh của Tâm. Ngay lúc này, tôi đang giải thích nó để các bạn có đôi chút khái niệm, hiểu về nó là như thế nào. Bước kế tiếp là bạn phải tự trải nghiệm. Chỉ hiểu bản tánh Tâm ra sao trên mặt trí thức thì ko đủ; bạn cần thật sự nếm trải nó, và cuối cùng chứng ngộ nó. Hãy luyện tập cho đến khi nó không còn bị gián đoạn.

Một người [gọi là] được khai mở vào tánh Không - là việc nhận ra tánh Không chính là "sự thức tỉnh tự giác biết" (self-cognizant wakefulness). Sự tỉnh thức không hư dối này gọi là "cái biết". Mỗi cá nhân đều có tiềm năng này. "Bản tánh" của các bạn là "Không tánh" và "tính chất" của các bạn là sự "rõ biết", cũng giống như tính chất của Lửa là Nóng. Tâm thì Vô Tự Tánh, nhưng nó mang năng lực "hay biết"; tính chất của nó là "tự nhiên hay biết". Hai phương diện này hợp nhất gọi là "Cái Biết Rỗng Không" (Empty Cognizance).Việc lãnh hội điều này rất quan trọng. Nếu ko, chúng ta có thể nghĩ rằng Trạng Thái Giác Ngộ là một thứ gì đó chúng ta cần tạo ra và đạt được - có thể là gì đó mà vị Thầy 'ban cho' ta, hay có lẽ là thứ chúng ta 'tạo ra được' sau nhiều năm tu luyện. Nó Ko phải như thế! Trọng tâm của vấn đề chỉ đơn thuần là trạng thái phân tán hay ko bị xao lãng khỏi "cái biết về sự thức tỉnh hiện tiền". Tâm phóng tán là một chúng sinh; Tâm bất động là một vị Phật. Tâm bất động là sự giác ngộ được bản tánh. Ko có sự nỗ lực trong việc thật sự chứng ngộ bản tánh; nó không cần dụng công.

~ Tulku Urgyen Rinpoche

 (Eng Soure: Padmamalla's IG)


 

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...