Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

Trí Văn và sự Giác Ngộ

 


Một điểm quan trọng cần ghi nhớ là bất cứ thông tin nào chúng ta gom nhặt được, chúng ta cũng đều "lọc lựa", vậy nên phần còn lại ta có được chỉ là một dạng hiểu biết rất riêng biệt và độc nhất với bản thân mỗi người. Sự hiểu biết này không phải là giác ngộ. Thậm chí, nó chẳng còn được gọi là một kinh nghiệm. Nó giống như một mảnh vá, và cuối cùng sẽ bị rơi rớt. Là điều tốt khi được che bọc bởi những mảnh vá của sự hiểu biết bởi vì sớm hay muộn thì những mảnh vá cũng sẽ rơi rụng để cho kinh nghiệm có thể được hiển lộ.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhận biết ra rằng việc sống với những mảnh vá này sẽ kéo dài thời gian chúng ta lưu lại trên con đường tiến tới Giác Ngộ. Thật sự thì chúng ta còn lại bao nhiêu thời gian trong kiếp sống này? 20 năm? 30 năm, nếu chúng ta may mắn? Và nếu thật sự nhận thức được rằng những gì chúng ta đã học hiểu chẳng gì hơn là những mảnh vá chắp nối làm nên cuộc Luân Hồi của riêng mình, thì liệu bao nhiêu người trong chúng ta sẵn sàng bỏ ra 10 năm nữa để tiếp tục tin tưởng vào thứ thực tại đó? Thế nên, chúng ta phải chuẩn bị cho sự cởi bỏ những mảnh vá. Nhưng hãy ý thức rằng một khi lớp vỏ trong lộ ra, chúng có thể bị nhầm lẫn là phần thịt trái cây, đây là lý do vì sao chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng chấp nhận rằng nó chỉ là một lớp vỏ khác mà thôi. Chủ đề này không phải là một nguyên lý mà chúng ta chỉ áp dụng trong việc lắng nghe, tư duy, hay đọc hiểu; mà nó còn trở nên thích đáng hơn khi chúng ta thiền tập. Đây cũng chính là ý nghĩa một câu ngạn ngữ Tây Tạng nói rằng: "Kinh nghiệm thì giống như màn sương buổi sớm. Chúng sẽ chóng tan."


~ Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche

(Eng Soure: Vajra Wisdom's IG)

Móc Chánh Niệm

Một người bị mắc dính vào cái móc thì không có quyền lựa chọn mà luôn phải đi đến bất cứ nơi nào anh ta bị dẫn kéo. Tương tự như thế, nếu chúng ta bắt giữ được Tâm - thứ luôn có nguy cơ bị điên đảo trước những đối tượng của Sáu giác quan - với cái móc của Chánh Niệm, với sự cảnh giác và thận trọng, sẽ đem lại lợi ích vô cùng to lớn. Chúng ta nên sử dụng người gác cổng này để liên tục kiểm tra xem có bao nhiêu những niệm tưởng tích cực, tiêu cực và những hành động được chúng ta tạo tác trong ngày. Một khi chúng ta đã có thể kiểm soát được Tâm nhờ Chánh Niệm, mọi thứ xuất hiện nơi Luân Hồi và Niết Bàn trở thành phương tiện trợ giúp cho sự thực hành và đem lại lợi ích trong việc xác chứng ý nghĩa của những giáo lý [đã được lãnh thọ]. Tất cả mọi hình tướng được hiểu như là hiện hữu của Pháp Thân. Chúng ta nhận thức mọi thứ trong sự "thanh tịnh tự nhiên" của chúng, và không có thứ gì chúng ta có thể cho là "bất tịnh" được.

~ Dilgo Khyentse Rinpoche (Trích từ Quyển "Chúc thư của Zurchungpa")

(Eng Soure: Heart of Buddhism - Kindness's IG)
 

 

Hiểu Đúng về Thiền

Thiền không phải luôn luôn gắn liền với ý nghĩa là ngồi yên ở đâu đó với cặp mắt lim dim. Đó chỉ là một cách hành Thiền. Nó có nghĩa là con đang làm việc với những kinh nghiệm về Không tánh. Nếu thông qua kiểu kinh nghiệm này con phát triển được Trí Tư (khả năng tư duy, suy xét), thì phần thực hành của con may ra mới "thật sự" trở thành Chánh Tư Duy - còn nếu không phải vậy, thì chỉ là con đang duy trì trong trạng thái Rỗng Không hay còn gọi là Shunyata.

...Tư Duy chân chánh và thực thụ nghĩa là sống trong Thực Tại (hoàn cảnh thực tế), một cảnh thực tại không chỉ chứa đựng Không tánh, mà còn gồm cả điều chúng ta gọi là "sự biến chuyển". Vậy nên, nếu một người không có khả năng kết hợp hoặc sống trong sự biến chuyển đó, thì người này còn cách khá xa với thực tại.
Nếu như con thật sự hiểu biết về những giáo huấn của Mật Điển, con sẽ biết cách làm thế nào để "ở trong động" và cũng cùng lúc đó, con duy trì trạng thái Tư Duy. Thế thì, nếu như con nhảy múa suốt ngày, hay tĩnh toạ bất động cả ngày, sẽ chẳng có gì là khác biệt cả. Có lẽ, hành giả nào có thể kết hợp [tu tập] trong động thì có thể sẽ chứng đạt Giác Ngộ nhanh hơn, đây là lý do vì sao mà hành động được áp dụng nhiều hơn trong những giáo huấn Mật Điển. Như con có thể thấy, có sự chuyển động ngay cả trong luồng năng lượng của chính con, vậy nên trong Mật Thừa, phương tiện chuyển hóa đòi hỏi sự kết hợp mọi thứ vào trong nguyên lý trên.
Ta không nói rằng việc kết hợp hay thâm nhập được Trí Tư [đến mức độ như thế] là dễ dàng, nó cần thời gian dài và chẳng dễ dàng một chút nào cả.


~Namkhai Norbu Rinpoche(English Soure: Vajra Wisdom's IG)






Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

Tâm thức kỷ luật

 


"Không có dấu hiệu thành tựu nào tốt hơn một Tâm thức kỷ luật. Đây là chiến thắng thật sự cho những chiến binh chân thật, những chiến binh không cần binh khí."

~ Chatral Rinpoche
(Nguồn: Nyingma Masters FB)

"There is no better sign of accomplishment than a disciplined mind. This is true victory for the real warrior who carries no weapons."

~ Chatral Rinpoche
(Source: Nyingma Masters's FB

Sức mạnh của Chánh Niệm

        
                       (Nguồn ảnh: La Magie du Bouddha)


"Hứng chịu ngược đãi từ kẻ thù là hình thức khổ hạnh tốt nhất,
Nhưng đối với ai ghét bỏ chỉ trích và bám thích những lời ca tụng,
Những ai chịu đau đớn cùng cực do đào bới tất cả sai lầm của người khác,
Thì thất bại trong việc bảo vệ đúng đắn dòng tâm thức họ,
Và những kẻ luôn cáu kỉnh, nóng tính,
Chắc chắn sẽ làm gãy bể giới nguyện với hội chúng,
Vì vậy, con hãy không ngừng nương dựa vào sự Chánh Niệm, Cảnh Giác và Chánh Trực [của Tâm con]."

— Thánh Đức Chatral Sangye Dorje Rinpoche
(Nguồn: FB Jun Kai)

"To bear mistreatment from our enemies is the best form of austerity,
But those who hate criticism and are attached to compliments,
Who take great pains to discover all the faults of others,
While failing to keep proper guard over their own mindstream,
And who are always irritable and short-tempered,
Are certain to bring breakages of samaya upon all their associates,
So rely constantly on mindfulness, vigilance and conscientiousness."

— His Holiness Chatral Sangye Dorje Rinpoche
(Soure: Jun Kai's FB)

Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Tu Tập Nội Bồ Đề Tâm

B.TU TẬP NỘI BỒ ĐỀ TÂM (BỒ ĐỀ TÂM BÊN TRONG)

 

Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Hành giả nên luyện tập thế nào khi phát khởi Bồ Đề Tâm theo con đường bên trong?

Đạo Sư đáp: Theo đó, có mười hai điểm tu tập.

1. CỐT TỦY

Cốt tủy là sự khởi phát ý định giúp đỡ những chúng sinh không nhận biết được rằng: Bản tánh bẩm sinh, thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu), là không do tạo tác.

2. ĐỊNH NGHĨA

Không phụ thuộc vào những hành động “bên ngoài” của Thân hay Khẩu, nó được gọi là “nội” Bồ Đề Tâm vì chỉ được triển khai riêng bởi Tâm con.

3. SỰ PHÂN CHIA

Được phân thành hai: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Nguyện Ước là ước muốn những chúng sanh nào chưa giác ngộ được bản tánh này có thể nhận ra nó. Chỉ ngồi yên và lẩm nhẩm điều này thì chưa đủ; Con phải nỗ lực trong mọi điều kiện để giúp cho tất cả chúng sanh nhận ra nó.

Tsogyal, chừng nào con chưa (tự) giải thoát khỏi sự bám chấp nhị nguyên thì việc Hành Dụng sẽ còn khá khó khăn.

4. NHỮNG TỐ CHẤT CỦA HÀNH GIẢ

Bao hàm những phần giảng giải trước, đặc điểm của hành giả dấn thân vào con đường tu tập này là chỉ dùng những khái niệm tạo tác ở mức độ tối thiểu.

Tsogyal, hãy để cho Tâm con nghỉ ngơi!

5. ĐỐI TƯỢNG ĐỂ THỌ NHẬN

Con cần lãnh thọ từ một Đạo Sư đã chứng ngộ bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã) thông qua sự tu tập Ba Trí (Văn, Tư, Tu), và nhờ đó đã thoát khỏi Tám Mối Bận Tâm Thế Gian.

Tsogyal, một Đạo Sư là thiết yếu để con bước vào cánh cổng của giáo lý Đại Thừa.

6. NGHI LỄ THỌ NHẬN

Hãy tự giải thoát mình khỏi Ba Lớp Ý Niệm (ba phạm vi: đối tượng, chủ thể, hành vi), từ bỏ sự bận tâm đến tất cả các hoạt động thế gian, và như thế, con hãy thỉnh cầu để nhận lấy những hướng dẫn khẩu truyền chân thật.

7. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP

Con sẽ nâng tầm vượt xa trên Tiểu Thừa và những con đường sai lạc. Từ đó, việc thực hành sẽ phát huy hiệu lực giúp con từ bỏ mọi tư duy ích kỷ và chấp thủ nhị nguyên, để rồi con sẽ chứng ngộ bản tánh Vô Ngã.

8. NGUYÊN DO TU TẬP

Nguyên do cần tu tập phát khởi Bồ Đề Tâm theo cách thức từ bên trong là đưa tất cả chúng sanh vào con đường chân thật, đó là bản tánh của Hai Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã).

9. NHỮNG LỖI LẦM KHI KHÔNG TU TẬP

Khuyết điểm khi không tu tập là con sẽ đi lạc khỏi bản tánh Vô Ngã.

Những người bình phàm với Tâm thức chưa có sự chuyển đổi nhờ (cơ sở lý luận của) một trường phái triết học Phật Giáo nào đó, và với đối tượng không liên quan đến Phật Giáo-là những người đã thâm nhập vào một trường phái triết học sai lạc, thì "bản ngã" của họ được xem như là "một con người" kiểm soát và kinh nghiệm Ngũ Uẩn, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới. Hơn nữa, khi cho rằng "bản ngã" này là trường cửu, là vững chắc, họ chấp chặt vào nó, từ đó tạo lập khái niệm "bạn" và "thù", "ta" và "người khác".

Tsogyal, con phải nhổ lên cây cọc của sự chấp thủ.

Mối nguy hiểm của việc khái niệm hóa một "cái Tôi cá nhân" là khi hiểu lầm có một bản ngã và một cái-Tôi-có-thực, thì những đối tượng sẽ xuất hiện như là “thứ gì khác” [biệt lập với cái-Tôi-cá-nhân]. Vì dính mắc vào tư tưởng phân biệt như vậy, con sẽ xem những gì lợi ích cho “cái Tôi” là Bạn, và những gì gây tổn hại cho “cái Tôi” là Thù. Từ đó, những kinh nghiệm của ái luyến và ghét bỏ sẽ khiến con phạm vào nhiều loại hành vi bất thiện. Do những hành động này, con sẽ lang thang trong ba cõi thấp và khắp chốn Luân Hồi.

Tsogyal, nếu không trục xuất Tâm thức độc hại này, con sẽ không tìm được hạnh phúc.

Đối tượng hành giả nào bác bỏ [sự thực có] của "bản ngã"? Nói chung, nó bị bác bỏ bởi tất cả Phật tử. Nói riêng, chư Thanh Văn Giác đặc biệt phá trừ chấp ngã. Dĩ nhiên, những hành giả đã nhập môn Đại Thừa cũng phá bỏ sự chấp thủ vào một cái-Tôi-cá-thể. 

Có lời tuyên bố cho rằng chư Thanh Văn Giác thì chứng ngộ một phần bản chất của hiện tượng và chư vị Độc Giác cũng không chứng ngộ điều đó hoàn toàn. Nghĩa là hàng Thanh Văn khẳng định nhầm lẫn về sự hiện hữu của các yếu tố vật chất (tức chấp thủ Sắc Pháp thực hữu) thay vì cần phải liễu tri rằng bản tánh của mọi hiện tượng (kể cả vật chất và tinh thần - cả Sắc Pháp và Danh Pháp) thảy đều Vô Ngã, còn chư Độc Giác Phật thì lại dính mắc vào sự an trú trong trạng thái tinh túy rỗng lặng của Tâm thay vì thấu suốt thực nghĩa (để lìa bỏ cả trạng thái đó).

Tsogyal, chừng nào con chưa thoát khỏi những tín điều thuộc những trường phái triết học thấp,  con sẽ không lãnh hội được thực nghĩa (Chân Lý Tối Hậu).

Sự nguy hiểm của việc tạo lập nên khái niệm bản thể của hiện tượng là: một khi con đã quyết đoán và chấp chặt vào điều này, con sẽ tạo ra những phiền não. Chính chúng là Nhân dẫn con lang thang trong luân hồi. Cho dù nỗ lực trong bao nhiêu kỳ kiếp [nhưng nếu không ý thức được điều này] thì mọi cố gắng [giải thoát] của con là vô nghĩa. 

Đối tượng hành giả nào bác bỏ bản thể của hiện tượng? Nói chung, tất cả hành giả Đại Thừa đều bác bỏ nó. Nói riêng, sẽ là một tín hiệu xấu nếu như chúng ta đã bước vào cánh cổng Chân Ngôn Bí Mật mà còn chấp thủ thiên kiến, theo đó, những hành giả thuộc Trung Đạo cũng bác bỏ nó.

10. NHỮNG ĐIỂM CẦN TUÂN THỦ.

Con nên tu tập trong nghĩa lý Vô Ngã, điều này có hai loại: Nguyện (Ước) và Hành (Dụng).

Ba điểm trọng yếu của Nguyện (Ước) phải được dõi sát như sau.

1. Không ngừng thiết lập Nguyện (Ước) với suy nghĩ: Mong rằng tất cả chúng sanh luôn nhận ra lý tánh Vô Ngã.

2. Tu tập ngày ba thời, đêm ba thời trong sự tùy hỷ với người khác là những hành giả đang thiền định về ý nghĩa của Vô Ngã.

3. Luôn tự rèn luyện mình một cách tinh cần [trong nỗ lực] không để bản thân lạc khỏi ý nghĩa của Vô Ngã.

Thứ hai, Hành (Dụng) cần phải dõi sát trong hai khía cạnh thuộc bên trong và bên ngoài.

💎 Bốn sự tu tập bên ngoài là:

1. Không lìa xa Đạo Sư hay người bạn tâm linh đã giảng dạy con ý nghĩa của Vô Ngã cho đến khi con chứng ngộ nó.

2. Buông bỏ thiên kiến liên quan đến nơi chốn cư trú, đất nước hay vùng miền, địa vị chức tước, thù và bạn.

3. Học hỏi, suy tư và thiền định về giáo lý minh giải (giải thích và chứng minh) về Vô Ngã và Không tánh.

4. Không chấp vào tự ngã [và nghĩ rằng có một "cái Tôi"] đang tồn tại vì có danh tính, gia đình, hay thân thể [chắc thật].

💎 Bốn sự tu tập bên trong là:

1. Chớ hiểu rằng những tên gọi [được xã hội gán đặt và sử dụng] là những sự vật thực sự tồn tại, vì mọi nhãn hiệu và tên gọi của sự vật bên ngoài thì không hiện hữu trong Tâm con.

2. Hãy nhận thức rằng mọi thứ tạo lập nên thế giới cùng tất cả chúng sinh trong đó đều vô tự tánh (không có bản thể thực sự), dù có xuất hiện thì cũng chỉ như những giấc mộng và ảo huyễn.

3. Ngày ba thời, đêm ba thời, con hãy tìm cho ra sự bám chấp vào các đối tượng khác nhau của Tâm, dù thực chất chẳng có thứ gì thật sự tồn tại.

4. Giữ mình không lạc khỏi thực nghĩa - vốn không có bất kỳ tên gọi (khái niệm) và những cực đoan nào. Dẫu cho có tìm kiếm Tâm mình, thì nó cũng chẳng thể được tìm thấy như là bất cứ thứ gì.

Đó là những điều tối quan trọng để con tự tinh tấn rèn luyện theo con đường này. Nhờ thực hành theo con đường này, con sẽ trừ diệt được những tâm thức độc hại và dứt bỏ được Luân Hồi.

11. RANH GIỚI GIỮA VIỆC ĐƯỢC VÀ MẤT GIỚI NGUYỆN

Khoảnh khắc lãnh thọ Nội Giới Bồ Đề Tâm (Bồ Đề Tâm bên trong) là khi con nhận được những hướng dẫn khẩu truyền từ Đạo Sư của con.

Lúc mất nguyện là khi con chạy theo những bám chấp nhị nguyên thông thường mà không ý thức về việc bản thể không [thực sự] tồn tại. Ngay lúc bị mất [và nhận ra], hãy áp dụng phương pháp đối trị thật dứt khoát!

12. PHƯƠNG PHÁP PHỤC HỒI GIỚI NGUYỆN HƯ TỔN

Gìn giữ sự tu tập không sao lãng những nghĩa lý vừa giải thích trên, con sẽ tự động tháo cởi đượt nút thắt (sự trói buộc) của [tư tưởng] chấp thủ nhị nguyên.

~ Guru Padmasambhava 

(Trích dịch từ Quyển Giáo Huấn Chư Dakini, NXB Rangjung Yeshe, 1999)

[Mời bạn xem thêm nội dung và tải bản pdf tại đây]


 

Thứ Năm, 28 tháng 10, 2021

Duyên Sự

Thoáng thấy bóng dáng của Vô Thường và Khổ Đau đe dọa trói buộc mình trong cuộc Trầm Luân thêm vô lượng kiếp, tôi sợ hãi lìa dần cuộc chơi trần thế Vui ít - Buồn nhiều - đầy Hệ luỵ - chóng Chán để theo chân các vị Đạo Sư, mong tìm được bến bờ Hạnh Phúc Chân Thật. Nương theo những lời dạy đầy từ ái và bi mẫn của các vị Minh Sư hữu duyên được kết nối, tôi cũng dần truy nguyên lời dạy của Đức Phật để đào sâu vào Suối Nguồn An Lạc, để có thể tự mình kiểm nghiệm, hấp thụ những tinh hoa Giáo lý cho từng bước chân trên Đạo lộ được thêm an toàn và an lạc. Tôi bước đi trên Con Đường dẫn đến Giải Thoát, trước nhất là vì hạnh phúc của riêng mình, sau rồi không biết sao cái Duyên cứ đưa đẩy tôi phải sử dụng khả năng ngoại ngữ yếu kém cùng chút kiến thức và kỹ năng cạn cợt của mình để chuyển dịch những gì tôi biết được, hiểu được sơ sài cho những đối tượng kém phước duyên hơn mình. Cũng có ý định từ bỏ công việc này "nhiều lần" chỉ để tập trung vào việc tu tập riêng cho bản thân nhưng luôn thất bại vì không tìm được sự chấp thuận của "lương tri". Nếu ai đó có tin vào Nhân Quả Nghiệp Báo trong ba thời (Quá Khứ, Hiện Tại, Vị La) thì cũng có thể hiểu rằng Tôi như "vướng phải" công việc chuyển dịch như là một "Thiện Nghiệp" vậy. Có những lời dạy đơn giản thôi, ngắn gọn thôi nhưng đánh động Tâm thức tôi, dẹp trừ phiền não nơi tôi, mở rộng Tâm thức tôi ở mức khó nghĩ bàn. Nhờ Tâm được dần chuyển hóa mà từ đó, tôi xem việc lợi mình cũng như lợi người, chỉ cần mình dành ra một chút thời gian, công sức chuyển dịch, ghi chép xuống và ngó kỹ tới lui vài lần thì đã có một bản dịch "đường hoàng" để "cả nhà cùng tu". "Cả nhà" ám chỉ cho Tâm thức của những người Hữu Duyên với tôi, cùng kím tìm Hạnh Phúc như tôi, cùng bước trên lối Giải Thoát với tôi, hay cũng như cùng đi chung với tôi trên một chuyến đò Sinh Tử vô cùng ngắn ngủi này. Ngoài ra, sau khi thấm thía những giá trị lớn lao từ việc áp dụng giáo lý của Đức Phật, tôi không thể làm ngơ trước việc tự mình phải đóng góp phần nào công sức để duy trì tài sản trí tuệ gần 2,600 năm mà Đức Từ Phụ để lại, cùng với vô số luận giảng mà chư Thầy Tổ đã từ bi khai thị giúp cho người cầu Đạo, dù với căn cơ nào cũng có khả năng bước vào bên trong Giải Thoát Môn. 

Nói cho dông dài nhưng tóm lại thì tôi đã quyết định theo đuổi công việc chuyển dịch và lưu trữ tư liệu nơi đây vì 3 lý do:

- Tu tập và giải thoát chính mình.

- Trợ giúp hành giả tầm cầu hữu duyên.

- Góp phần gìn giữ và phổ biến pho Giáo lý Phật Pháp mà tôi xem như là món di sản vô giá của toàn thể nhân loại. 


Nguyện cho chút ít công đức nào có được từ việc chuyển dịch những nội dung Giáo lý này sẽ đem lại hạnh phúc tức thời cho người đọc,

tức thời tiêu trừ mọi khổ đau, phiền não, che chướng nơi Tâm độc giả và hành giả,

tức thời ánh sáng của Chánh Kiến và Trí Tuệ được tự nhiên sinh khởi giúp xóa sạch Tà Kiến, xua tan lớp màn Vô Minh u tối nơi dòng Tâm thức của vị hữu duyên.

Nguyện mọi sự cát tường!

Sarva Mangalam __()__


Lạc Hải Âm (樂海音)

HL 29/10/21



 

Dịch Haiku - 03

                                        Ẩn sĩ                                       thưởng trà sớm                                      tĩ...